HOÀNG KHỞI PHONG
N g ô i t r ư ờ n g
c ũ
1.
Chúng
tôi tới thị xã Cẩm Phả vào hồi mười giờ sáng. Một cơn mưa bất thường ập xuống,
làm như trời cũng cảm được lòng người, nhỏ những giọt nước mắt của trời để làm
chất xúc tác cho những giọt nước mắt của người có dịp tuôn trào.
Sau hơn
nửa thế kỷ quay lại, thị xã Cẩm Phả hoàn toàn không còn một vết tích cũ. Cũng
không hẳn như thế, những ngọn núi tất nhiên vẫn còn đó, ẩn sâu trong lòng núi
vẫn là những vầng than đá đen nhánh và bóng loáng như gương, được thiên nhiên
cấu tạo từ hàng tỉ năm về trước. Nếu có khác đi chính là con người, và những gì
do bàn tay con người tạo dựng. Tất nhiên thiên nhiên cũng sẽ bị con người vun
quén, bồi đắp, phá hủy và làm biến thái phần nào, song nhìn chung thì non
xanh vẫn còn đó, và nước biếc vẫn còn đây, kể cả những cây thông tuy có xơ xác
hơn vì không được gìn giữ đúng mức, nhưng chúng vẫn còn mọc khá nhiều trên sườn
núi, chĩa những cái ngọn nhọn hoắt chọc thẳng lên trời xanh. Chỉ có nhà cửa,
phố xá, xe cộ thì không còn một vết tích gì của nửa thế kỷ trước. Sau cơn mưa
bất thường ập xuống, lớp bụi than đá tạo thành những giòng nước đen ngòm chẩy
lênh láng trên mặt đường.
Dọc
theo con đường chính chạy ngang thị xã những ngôi nhà vài ba tầng vươn lên khỏi
ngọn những tàng cây bàng cổ thụ. Ít nhất thì những cây bàng này vẫn còn tồn
tại. Tôi không hiểu nhiều về đời sống thực vật, nhưng có lẽ loại cây này có thể
sống hàng thế kỷ, và như thế thì chính những cây bàng này là vật chứng cho sự
thay da đổi thịt của thị xã Cẩm Phả Mỏ này. Trước một quang cảnh hoàn toàn lạ
lẫm, tôi lúng túng không biết phải xử trí như thế nào, phải bắt đầu từ đâu để
tìm lại dấu vết của ngôi trường cũ, nhưng hai người bạn đồng hành của tôi, đạo
diễn Trần Văn Thủy vốn là người của Hà Nội, và Nguyễn Kỳ Hùng, một anh bạn cũng
ở Mỹ về chung với tôi kỳ này thì tỉnh táo hơn tôi. Từ phía sau chồm lên vỗ vai
anh tài xế, Thủy nói:
- Đậu
xe lại đây. Ông Phong này, có cái trường Mầm Non to đùng, bọn mình vào hỏi các
thầy cô ở đây may ra họ biết. Thế nào cũng có người biết ông ạ.
Tôi mở
cửa xe dợm bước xuống. Dẫu chưa tìm thấy ngôi trường cũ, nhưng tôi biết tôi sắp
bước xuống một phần đất mà nửa thế kỷ trước tôi đã từng chạy nhẩy, chơi đùa với
chúng bạn. Tôi có cảm giác toàn thân tôi run lên, như có một luồng khí lạnh
chạy dọc xương sống xuống tới tận bàn chân, khi chân phải tôi vừa mới chạm
xuống lớp nhựa trên mặt đường.
Bên kia
đường tôi thấy một tấm bảng lớn ghi tên trường, mà vừa thoáng nhìn qua tôi biết
ngay ngôi trường Mầm Non này dứt khoát không phải là ngôi trường Tiểu Học Cẩm
Phả Mỏ mà tôi đã học năm mươi mốt năm về trước. Không lẽ người ta đã phá ngôi
trường cũ của tôi, để dựng lên ngôi trường này. Tuy vậy tôi cũng lẽo đẽo đi sau
Trần Văn Thủy. Anh đẩy cái cổng sắt khép hờ, bước vào sân trường. Mới có hơn 10
giờ sáng, trong một ngày bình thường mà sao sân trường vắng hoe, không cả tiếng
lao xao vẳng lên nơi những lớp học. Cho dù học trò đang giờ học ở trong lớp,
thì thế nào nơi sân trường cũng có những chỉ dấu của một ngôi trường đang hoạt
động. Thế nhưng tôi nhìn khắp sân trường, tuyệt không thấy một dấu vết gì, chỉ
có vài con chim tránh mưa trong những tàng cây lớn trong sân trường.
Là một
đạo diễn thành danh ở trong nước, đã từng tiếp cận với đủ mọi loại hạng người,
từ những người có quyền sinh sát và đã ngâm tôm các cuốn phim có vấn đề của anh
như “Hà Nội trong mắt ai” và “Chuyện tử tế”, cho tới những người dân lầm than
cùng khổ trong lúc thực hiện các cuốn phim tài liệu này của anh, đạo diễn Trần
Văn Thủy xăm xăm bước tới một căn phòng mở cửa. Đi sau anh vài bước, tôi nghe tiếng
anh nói với tôi, nhưng thật ra là để phân bua với một người nào đó trong phòng:
- May
quá ông Phong ạ, vào đây. Có cô giám hiệu đang làm việc mình có thể hỏi cô về
ngôi trường tiểu học cũ của ông.
Tôi líu
ríu theo chân Trần Văn Thủy bước vào phòng. Một phụ nữ chừng ngoài bốn chục mặc
áo dài mầu nhã đang cắm cúi làm việc, ngước mặt lên chào chúng tôi bằng cách tự
giới thiệu mình không phải là giám hiệu, mà chỉ là hiệu phó, và mời chúng tôi
ngồi xuống hai cái ghế tiếp khách trước bàn làm việc. Thủy chỉ vào tôi và nói:
- Chúng
tôi từ Hà Nội về đây, anh bạn tôi ở trong Nam ra. Trước kia anh ấy học tại
trường tiểu học Cẩm Phả Mỏ, giờ có dịp về đây muốn tìm thăm ngôi trường cũ. Xin
hỏi cô trường ta có phải là trường tiểu học trước đây không.
- Không
phải hai ông ạ, ngôi trường này mới xây cất cách đây chừng mười năm mà thôi.
Xin lỗi ông học ở đây thời kỳ nào?
- Lâu
lắm rồi, từ hồi trước 54 rồi sau đó gia đình tôi di cư vào Nam, bây giờ có dịp
về thăm chốn cũ, nhân thể tìm xem ngôi trường cũ có còn không?
- Như
vậy là khi ông học ở đây thì tôi chưa ra đời, nhưng tôi biết chắc ngôi trường
đó vẫn còn. Hai ông đi thẳng thêm chừng một cây số nữa, bỏ hai ngã tư, gặp ngã
ba đầu tiên ông rẽ trái chừng độ vài chục, một trăm thước, thì thấy ngôi trường
cũ các ông muốn tìm.
Chúng
tôi chào cô hiệu phó đi ra, hai tách trà cô rót mời chúng tôi vẫn còn bốc khói.
2.
Leo lên
xe Thủy dặn anh tài xế chạy thật chậm, để tôi có thể nhìn xem cảnh cũ, người
xưa có còn một chút dấu vết nào không. Tôi rất muốn đi bộ, trên con đường nửa
thế kỷ trước tôi vẫn la cà mỗi khi tan học, nhất là theo lời cô hiệu phó ở
trường Mầm Non, thì từ đây tới ngôi trường cũ của tôi đâu có xa xôi gì, chỉ hơn
một cây số và tôi nhìn thấy thấp thoáng cái ngã ba đó. Nhưng cơn mưa bất thường
đã làm cho mặt đường phủ một lớp nhầy nhầy đen kịt, tôi không nỡ để các bạn
phải lội bộ đành leo lên xe.
Tôi hạ hết
tấm kính xe, những giọt nước mưa thỉnh thoảng hắt vào mặt tôi, như muốn rửa
sạch cho tôi mớ hình ảnh lùng bùng hỗn độn của ngày thơ ấu. Nhà cửa hai bên
đường mọc san sát như bát úp. Trong trí nhớ của tôi, toàn thị xã Cẩm Phả này
không hề có một ngôi nhà ba tầng, song giờ đây trên con phố chính họa hoằn tôi
mới nhìn thấy một ngôi nhà trệt không có lầu. Trong trí nhớ của tôi, những ngôi
nhà ở đây là nơi trú ngụ cho từng gia đình, bây giờ mỗi căn nhà ngoài mặt tiền
là một cửa hiệu, bầy bán một loại hàng nào đó. Ngày xa xưa đó việc mua bán
thường diễn ra ở chợ, những ngôi nhà dù lớn hay nhỏ, khang trang sáng sủa hay
lụp xụp tối tăm thường chỉ là chỗ trú ngụ cho mỗi gia đình. Thỉnh thoảng tôi
thấy người ta dùng rơm thui chó ở bên hông nhà, rồi mang ra cái giếng công cộng
mổ bụng, máu loang ra hòa với nước đọng thành những vũng mầu hồng. Mỗi lần có
đánh đụng chó thì bọn trẻ con chúng tôi bu lấy vòng trong vòng ngoài, xúm xít
nói cười ầm ĩ, giờ đây tôi nhìn thấy hai bên đường ít nhất cũng có vài ba “cửa
hàng thịt chó”.
Đột
nhiên tôi nhìn thấy một trụ cây số ngay trên hè phố, trên tấm trụ xi măng này
ghi rõ “Cửa Ông 11 km”. Cả một thời thơ ấu của tôi hiện về cùng với cái bảng
cây số này, và tôi biết chắc nếu đi thêm một cây số nữa sẽ có một cái trụ khác
ghi “Cửa Ông 10 km”. Nửa thế kỷ trước hầu như hai tấm bảng này giới hạn khu vực
trung tâm của thị xã Cẩm Phả Mỏ. Địa danh Cửa Ông chỉ là một địa danh khác của
Cẩm Phả Bến. Cũng là Cẩm Phả, song nơi gia đình tôi trú ngụ là mỏ than, người
Pháp gọi là Cam Pha Mines, còn Cửa Ông là nơi những con tầu ăn than cập
bến, để chở than từ Cẩm Phả Mỏ đi đến những chân trời xa thẳm, được người Pháp
gọi là Cam Pha Port.
Thuở
nhỏ tôi đã nhiều lần tiểu vào hai cột cây số này, bởi vì thời đó tôi là một cậu
trò nhỏ tinh nghịch, và khúc đường này thời đó tuy là khu vực trung tâm của thị
xã, nhưng nhà cửa thưa thớt hơn nhiều và thỉnh thoảng có nhiều khoảng trống,
nên tôi không úy kỵ điều gì. Thời đó tôi đi học buổi sáng, khi thức dậy thì cha
tôi đã đi làm từ sớm, khi tôi tan trường thì cha tôi cũng chưa về, do đó tôi
một mình lang thang trên đoạn đường này, và thường nghịch ngợm leo trèo cho tới
khi nào nghe tiếng còi tan tầm tôi mới ù té chạy về nhà trước ông chừng mười,
mười lăm phút mà thôi. Bởi vì cha tôi làm việc ngay bên cạnh nhà, song mỗi khi
còi tan tầm rồi cha tôi còn phải làm nốt một số công việc hàng ngày của người
giám thị rồi mới được ra về.
Có hôm
tôi thủ một cái súng cao su, túi quần soóc đầy những viên cuội tròn, tôi bắn
bất cứ một sinh vật nào, chạy nhẩy, bay lượn trong tầm súng của tôi. Có hôm
kiếm được một trái bòng non, tôi đá bóng một mình tại sân vận động gần sát cổng
trường cho tới khi trái bòng vỡ nát. Có hôm tôi nhặt một cái ống bơ rỉ, vừa đi
vừa đá dọc đường cho tới khi tôi phải leo một cái dốc cao để về nhà, vì thời
gian đó cha tôi được bác tôi giới thiệu vào làm cho mỏ than, vì tương đối ông
là người nói tiếng Pháp trôi chẩy, nên được tuyển dụng làm giám thị cho mỏ
than, được sở mỏ cấp phát một căn nhà ở trên đỉnh núi, sát ngay với công trường
để dễ dàng trông coi công việc. Nhà tôi ở sát với một đường dây cáp để trục các
xe goòng than từ trên núi xuống dưới chân núi, ở đó có hàng chục chiếc xe vận
tải chở than chờ sẵn. Con đường đi học hàng ngày của tôi nương dưới bóng của
cầu trục này, thành thử có một đoạn đường dốc ngược đúc bằng bê tông chạy ngay
dưới dây cáp của cầu trục.
Tôi nhớ
tới những buổi sáng mùa đông, cứ nghĩ tới con dốc dựng đứng ngay dưới cần trục
là tôi chỉ muốn nằm luôn tại nhà, thế nhưng bao giờ tôi cũng tốc chăn đứng dậy,
vì hình ảnh cái roi mây trong tay thầy giáo quẫy như một con lươn trước mặt
tôi, và sợ hơn nữa là cái thở dài của cha tôi mỗi khi tôi phạm lỗi nặng. Tuy
nhiên tôi chỉ phải đi học theo con dốc cầu trục một thời gian nửa năm đầu ở Cẩm
Phả, vì tôi là đứa trẻ đủ cứng cáp theo cha tôi đi trước. Nửa năm đầu ở Cẩm Phả
chỉ có cha con tôi ở trong căn nhà lưng chừng núi này. Sau khi đã thu xếp công
việc, nơi ăn chốn ở đâu vào đó cha tôi viết thư về nhà, nhắn mẹ tôi đưa toàn bộ
gia đình ra xum họp với cha tôi, vì sở mỏ cấp cho cha tôi một căn nhà dưới phố,
chỉ cách trường một thôi đường ngắn.
Từ lúc
nhìn thấy cái cột cây số trên lề đường, tôi biết chắc tôi sẽ tìm được ngôi
trường cũ.
3.
Xe vừa
mới chớm quẹo trái ở ngã ba, tôi nhìn thấy một tháp chuông nhà thờ nhô lên cao,
và ngay lập tức làm như tôi ngửi thấy mùi hăng hắc của những cái hột bàng bị
đập vỡ, sau khi lớp cùi bên ngoài mầu vàng ối ngọt lự bị tôi gặm hết, tôi
thường đập vỡ đôi cái hột, để lấy cái nhân mầu trắng ăn bùi bùi. Có lần gặp
phải một hột bàng quá trơn, tôi để cái hột này lên trên nền xi măng, dùng tay
trái để giữ hột bàng, tay phải cầm một hòn đá đập xuống. Hột bàng văng ra xa, hòn
đá đập trúng ngón tay sưng vù tím ngắt. Phải rồi ngôi trường của tôi quanh quẩn
đâu đây nơi nhà thờ này. Chính nơi đây cũng là nơi đã dung chứa tâm hồn thơ dại
của tôi trong những buổi trưa nắng gắt. Trong trí nhớ của tôi, thời đó ngôi nhà
thờ này dường như không có cái tháp chuông cao, nhưng chắc chắn ngôi nhà thờ đã
có đó từ trước khi tôi theo chân cha tôi ra Cẩm Phả.
Cơn mưa
bất thường dường như đã gột bớt được lớp bụi than bên ngoài, làm cho mầu vàng
của tháp chuông sáng sủa hơn, đồng thời trí nhớ của tôi cũng nhờ đó mà rõ nét
hơn. Đúng rồi, ngôi nhà thờ này nằm phía sau trường tôi, nơi mà mỗi lần chào cờ
hát quốc ca đầu tuần, trong trí nhớ của tôi tuy không có tháp chuông cao nghệu,
nhưng dường như có một cây thánh giá nhô lên đằng sau trường, và bọn trẻ ngoại
đạo chúng tôi thường đứng bên đường chỉ trỏ, cười nói huyên thuyên mỗi lần có
dịp xem giáo dân rước kiệu.
Anh tài
xế vừa ngừng xe lại. Tôi còn đang bàng hoàng khi nhìn thấy cổng trường cũ, thì
Kỳ Hùng ngồi phía bên cạnh tài xế, cùng với Trần Văn Thủy ở phía sau đã mở cửa
xe bước xuống trước tôi. Chưa bước vào trong sân trường. Thủy đã reo lên:
- Chắc
chắn đây là ngôi trường cũ của ông rồi ông Phong ạ. May quá ông về kịp, người
ta đã xây một ngôi trường bề thế hơn ở ngay bên cạnh. Tôi sợ rằng nhiều lắm là
một hai năm nữa người ta sẽ đập mấy lớp học quá cũ, mà nếu lúc đó ông mới về
thì ông sẽ không tìm được cái gì ông muốn tìm.
Tôi
nhìn thấy ống kính máy hình của Kỳ Hùng lóe sáng liên hồi. Anh chụp hình từ
cổng trường trở vào. Một tấm bảng treo sát với mái trường, choán hết hai phòng
học ở giữa với hàng chữ “Dậy Tốt – Học Tốt” làm tôi bỡ ngỡ. Chữ Việt là một
ngôn ngữ giầu hình ảnh và âm thanh, câu khẩu hiệu này cụt ngủn kiểu “Ba đảm
đang, ba sẵn sàng” khiến cho tôi khựng lại.
Đây là
ngôi trường năm mươi mốt năm trước tôi đã học. Dẫy phòng học bốn lớp nằm ngay
trước mắt tôi. Người ta đã thay cái sân cỏ bằng một sân xi măng, những cây bàng
trước kia đâu hết mà thay vào đó là vài cây bàng nhỏ xíu, mới trồng nằm ngay
giữa sân trường. Tôi vẫn đứng ở ngoài sân nhìn lên thềm lớp. Hôm nay là một
ngày giữa tuần, tôi không hiểu vì lý do gì mà cả trường Mầm Non lẫn ngôi trường
này đều cho học trò nghỉ, nhờ vậy mà tôi được hoàn toàn thoải mái với những
hình ảnh của riêng tôi lưu trữ trong đầu. Sân trường trong một ngày nghỉ học
rộng mông mênh, nước mưa vừa mới đọng thành từng vũng loang loáng trên mặt đất.
Đột
nhiên tai tôi như bị ù đi bởi những âm thanh lùng bùng, hỗn độn, rồi những tạp
âm dần dần dịu lại, để nhường chỗ cho những tiếng lao xao xì xào vang ra từ
trong các lớp. Rồi bỗng nhiên ngay khi còn đứng ở ngoài sân, tôi đã nhìn thấy
các câu thành ngữ treo trong các phòng học: “Ngày nay học tập ngày mai
giúp đời”, “Tiên học lễ hậu học văn”, “Một tinh thần minh mẫn, trong một thân
thể tráng kiện”. Tôi nhìn thấy các tấm bản đồ nguyên vẹn của nước ta,
với mầu xanh của biển Đông ôm ấp mầu vàng của lãnh thổ. Chưa bước chân vào
trong lớp, nhưng hình như tôi đã nhìn rõ cái bàn của thầy Phái kê sát gần bên
cửa sổ, trên một bục xi măng cao hơn nền lớp chừng nửa thước tây. Cái bục xi
măng này chạy dài suốt bề ngang lớp học, để thỉnh thoảng thầy từ bàn bước ra,
viết các đầu đề lên trên bảng đen. Chữ của thầy viết tuyệt đẹp, ngay hàng thẳng
lối mà đều như chữ in. Tôi nhớ rõ chỗ tôi ngồi năm mươi mốt năm về trước, đó là
một chỗ đầu bàn thứ hai. Bàn trên cùng là chỗ các chị Thúy, Mão cùng vài chị
nữa ngồi. Mấy chị khi ngồi xuống cao hơn tôi hẳn một cái đầu, do đó tôi luôn
phải nghiêng mình ra lối đi ở giữa lớp để có thể nhìn thấy những hàng chữ thầy
viết trên bảng đen.
Từ dưới
sân trường, tôi dợm bước chân lên thềm lớp với những hình ảnh thoáng qua đầu
tôi: Ba lớp học buổi sáng xếp hàng vào lớp. Lớp Nhất của chúng tôi đứng ngoài
cùng, kế bên là Lớp Nhì của thầy Lâm và sau cùng lẽ ra là lớp Ba, của một thầy
tôi đã quên tên, vì khi tới Cẩm Phả tôi đã học nửa năm lớp nhì với thầy Lâm,
rồi lên lớp Nhất của thầy Phái. Thay vào Lớp Ba buổi sáng lại là Lớp Năm của
thầy Phiên, một lớp học buổi chiều, và tôi thấy hình ảnh đặc biệt thầy Phiên
mỗi buổi chiều khi tan trường, tôi phải đi đón em gái tôi học lớp của thầy. Tôi
đứng ở ngoài hành lang, thầy to miệng đọc : “O tròn như quả trứng gà, Ô
thì có mũ, Ơ thì có râu ”, bọn trẻ con chúng tôi đứng ngoài gào lên Ô,
Ô, Ô, Ô bởi vì thầy Phiên có một hàng ria mép, nên lúc nào mở miệng cũng là một
chữ Ô to tướng. Khác với thầy Phái và thầy Lâm mặc complet khi dậy học, thầy
Phiên mặc quần ta, áo the thâm khăn xếp trên đầu, giầy Gia Định dưới chân. Thầy
là một khuôn mặt đặc biệt trong trường, lúc nào cũng khoan hòa với học trò,
không quá nghiêm như thầy Lâm và không dữ đòn như thầy Phái.
Bước
chân lên thềm lớp tôi thấy lòng quặn lại, nước vôi quét tường bị bong ra từng
mảng lớn, mầu xanh của sơn cửa bị bụi bám đầy trở thành một mầu đen xỉn, và
những tấm gỗ cánh cửa bị thời gian làm cho co lại, tạo thành những kẽ hở rộng
bằng đốt ngón tay. Đẩy cửa bước vào, tôi nhận thấy phòng học này dường như đã
bị bỏ hoang khá lâu, bàn ghế xiêu vẹo, những mảng ố trên trần, trên tường và
trên nền nhà chứng tỏ mái trường đã bị dột khá nhiều. Những hàng chữ viết bằng
gạch non nguệch ngoạc trên tường, và thậm chí thỉnh thoảng còn có những hình vẽ
bậy bạ chứng tỏ phòng học này đã không còn là nơi cho học trò đến học.
Tôi
nhìn lại những cái bàn học trò, chỗ tôi ngồi đầu bàn hai, chắc hẳn năm chục năm
qua đã có ít nhất hàng trăm cô cậu bé con ngồi vào chỗ tôi đã ngồi. Với hàng
trăm cô cậu bé con dầy vò, nghịch ngợm, leo trèo, nhẩy nhót chắc hẳn những bàn
ghế trong lớp học đã phải thay đồi ít ra một hai lần. Cái chỗ đầu bàn hai đó là
nơi tôi đã ngồi, nhưng cái bàn đó chắc chắn không phải là cái bàn cũ. Tuy đã
nhĩ như vậy, tôi vẫn xăm xăm bước tới, và vẫn thất vọng khi thấy trên mặt bàn
không có những lỗ khoét hình tròn, để học trò đặt bình mực của mình cho
khỏi đổ. Đã không có chỗ để lọ mực thì tất nhiên tôi cũng không tìm thấy tên
mình ngay dưới đường rãnh để bút, mà tôi đã dùng đầu kim của cái compas khắc
tên mình ngay dưới đường rãnh để bút này. Đã hơn bốn chục năm nay tôi không còn
nhìn thấy cái compas, cái thước kẻ, bình mực tím, những cái ngòi bút lá tre, lá
đề, những cục tẩy, những tờ giấy thấm...
Tôi
ngồi xuống chỗ mình đã ngồi năm mươi mốt năm trước, khoanh tay lại để trên mặt
bàn, mắt chăm chú ngó lên tấm bảng đen. Trên bàn thầy giáo anh bạn đạo diễn
Trần Văn Thủy đã ngồi chễm trệ, thế rồi hình ảnh của Thủy nhòe đi. Rõ ràng tôi
nghe tiếng thầy Phái kêu tên điểm danh cả lớp. Lố nhố quanh tôi những người bạn
cũ ở đâu hiện về.
Tôi nhớ
cả lớp tôi năm chục người, chỉ có bẩy người theo gia đình di cư vào Nam. Trong
bẩy người này hai anh em Nguyễn Đức Thìn, Nguyễn Đức Phúc còn học chung
với tôi thêm sáu năm nữa ở Nguyễn Trãi và Chu Văn An Sài Gòn. Ngô Quang Nghiêm
và Chu Quang Trung cũng học chung trường với tôi, nhưng không cùng lớp như tôi
với Thìn và Phúc. Riêng Trần Tuấn Phong thì học Hồ Ngọc Cẩn cho gần nhà. Ngoài
ra chị Thúy, chị ruột của Ngô Quang Nghiêm vào trong Nam mất sớm vì bạo bệnh.
Cả sáu người học trò của thầy Phái hiện giờ đều cư ngụ ở Mỹ. Nhỏ nhất là tôi đã
62, Phong và Nghiêm 63, Trung và Phúc 64 và sau cùng Thìn 65.
Trước
tôi năm năm bác sĩ Ngô Quang Nghiêm từ Dallas đã đưa mẹ về thăm chốn cũ. Anh ở
lại ở Cẩm Phả vài ngày, cùng với một nhóm y sĩ bạn làm một vài công việc từ
thiện cho dân chúng. Anh tìm được gần hết những người bạn cùng lớp còn cư ngụ ở
đây, mời các bạn cũ ăn một bữa cơm chung. Khi trở lại Dallas Nghiêm gọi cho tôi
biết anh đã mời được hơn một chục người, những người khác hoặc là đã chết, hay
đã xiêu tán đi nơi khác. Nhưng chị Mão thì gìa đến độ như một bà lão tám mươi,
mặc dù khi Nghiêm về thăm chốn cũ chị chỉ mới chẵn tròn sáu chục. Trước tôi hai
năm bác sĩ Trần Tuấn Phong cũng về thăm Cẩm Phả. Khi trở lại đây Phong mời tôi đi
ăn, trong câu chuyện anh cho biết căn nhà cũ của gia đình anh bây giờ vẫn là Ty
Bưu Điện, nhưng vườn tược chung quanh thì đã mọc lên những căn nhà khác. Cha
của Phong là Chủ Sự Nhà Giây Thép Cẩm Phả Mỏ (Ty Bưu Điện), rồi về hưu trước
khi di cư một năm. Người thay cho cha Phong lại là bác ruột tôi. Hồi bác tôi
mới đổi lên đây, mỗi buổi tối cha tôi dẫn tôi sang nhà bác, hai anh em nói
chuyện làng mạc, họ hàng nội ngoại có khi suốt đêm, nên căn nhà đó tôi đã từng
ngủ lại nhiều lần. Phong chấm dứt câu chuyện bằng một câu ngắn gọn: “Đủ rồi, đó
không phải là Cẩm Phả của tôi. Tôi sẽ không bao giờ về đó nữa”.
Còn
đang ngơ ngẩn thì tiếng quát của Trần Văn Thủy lôi tôi ngược trở về nửa thế kỷ
trước:
- Trò
Hiển, mang cuốn vở lên đây cho thầy chấm bài.
Tôi
ngước mắt nhìn lên, thấy bóng dáng lờ mờ của thầy Nguyễn Huy Phái, với một bộ
complet trắng, trên tay thầy là một cái roi mây nhỏ bằng ngón tay bay lượn
trong không khí. Một cậu học trò nằm xấp trên một cái ghế dài trước bảng đen,
rồi tiếng roi vun vút quất vào mông cậu bé bị phạt. Lần đó tôi bỏ quên cuốn vở
tập vẽ ở nhà. Khi thầy gọi lên chấm điểm, tôi quơ đại cuốn vở của Trần Đăng Mô
ngồi bên cạnh mang lên trình thầy. Thầy tôi rất tinh mắt nhìn thấy mọi chuyện,
nhưng thầy thản nhiên như không thấy gì. Chấm điểm cho tôi xong, thầy gọi tiếp
Trần Đăng Mô, thế là cả hai đứa chúng tôi cùng bị đòn. Mô chỉ bị hai roi đòn
cảnh cáo, còn tôi lãnh đủ năm roi mây đau quắn đít. Khi đánh đòn, thầy tôi còn
nhiếc: “Đánh cho chừa cái thói dối thầy hại bạn”.
Ngô
Quang Nghiêm cho tôi biết Mô hiện đã có cháu nội và ngoại, trước kia Mô làm phu
mỏ. Cha con, ông cháu sống như những cái bóng trong một căn nhà ẩm thấp. Mô có
nhờ Nghiêm chuyển cho tôi một lá thư, kèm với cái thư là bản fotocopy tấm hình
của tôi chụp để làm thẻ học sinh khi chúng tôi đi thi Tiểu Học. Tấm hình này
tôi đã cho Mô khi gia đình tôi quyết định di cư vào Nam, và gia đình Mô chọn ở
lại. Lá thư viết tay trên giấy vở học trò của Mô, sau vài lần dọn nhà đã thất
lạc trong đống giấy tờ sách vở, thành thử trước hôm về tôi có ý định tìm mà
không thấy. Thoắt một cái đã năm chục năm qua đi, đời người ta như một bóng câu
qua cửa sổ, tôi không biết hiện giờ người bạn cũ sinh sống ra sao. Khi Nghiêm
về thăm Cẩm Phả gặp Mô thì đã năm năm qua, liệu anh còn hiện diện trên cõi đời
này, hay anh đã quá bộ theo thầy Nguyễn Huy Phái về nơi tiên cảnh.
Tôi
tiếc là sau khi di cư vào Nam, tôi chỉ gặp lại thầy tôi một lần duy nhất vào
năm 1963, sau khi tôi và Nguyễn Đức Thìn cùng bỏ ngang việc học, cùng thụ huấn
một khóa sĩ quan Thủ Đức. Năm 1963 khi ra khỏi quân trường Thủ Đức, tôi phải
đổi ra Quảng Ngãi và biết được thầy Phái đang làm Thanh Tra Tiểu Học ở đây. Lần
viếng thăm đó, thầy tỏ vẻ tiếc cho tôi, một trong những học trò mà thầy kỳ vọng
rất nhiều, không ngờ lại là đứa phá ngang sớm nhất. Thầy nói đến sự thành công
trên con đường học vấn của Ngô Quang Nghiêm, Trần Tuấn Phong và Chu Quang Trung
với đầy vẻ phấn khích. Tuy không lên tiếng phê bình việc bỏ ngang của tôi, song
chính thái độ im lặng của thầy đã là một lời trách mắng.
Tôi nhớ
ánh mắt của thầy hôm đó nhìn tôi trong bộ quân phục, thầy không nhận ra tôi sau
tám năm xa cách, tuy vậy thầy vẫn biết tin tức về những người học trò cũ của
thầy đã di cư vào Nam. Thầy giữ liên lạc mật thiết với ông Chủ Đàm ba của Trần
Tuấn Phong, cũng như với phụ huynh của những người học trò cũ của thầy ở Cẩm
Phả, để từ đó thầy có đủ mọi thông tin về những người học trò cũ của thầy.
Chính vì vậy thầy biết con đường tiến thủ của chúng tôi, trong khi Nghiêm,
Phong và Trung đi thênh thang trên các đại lộ Y Khoa và Luật Khoa, thì tôi và
Nguyễn Đức Thìn đã chui vào một con đường cụt qua ngả trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức. Buổi chiều đó tôi tới thăm thầy tại một căn nhà nhỏ gần Ty Tiểu Học Quảng
Ngãi, thầy ở đó một mình. Cô và các em dường như đã vào Sài Gòn trước, thầy cho
biết sắp đổi đi làm Trưởng Ty Tiểu Học ở Quảng Đức, một tỉnh mới thành lập trên
cao nguyên Trung Phần. Tơi hơi buồn cho thầy phải đổi lên một nơi đèo heo hút
gió, nhưng mừng thầm cho các cô cậu trò nhỏ ở nơi đây, bởi thầy tôi đúng là một
mẫu lương sư của mọi thời.
Từ
trong lớp học bước ra, tôi nhìn sang bên trái thấy một dẫy nhà lầu ba tầng. Đây
mới là trụ sở của ngôi trường hiện nay của thị xã Cẩm Phả, và trường đã không
còn là trường tiểu học nữa mà đã trở thành trường cấp 2 hay cấp 3 gì đó. Cho dù
ngôi trường mới này to và đẹp cách mấy cũng không ăn nhậu gì tới tôi. Trần Văn
Thủy nói đúng. Tôi về kịp lúc, chỉ một hai năm nữa thì người ta sẽ phá hủy cái
dẫy nhà ngang có bốn lớp học tồi tàn này.
Tôi
không hiểu những người bạn cùng lớp của tôi còn ở lại ngoài Bắc những ai còn và
những ai mất. Tôi không biết học trò thầy ở lại ngoài Bắc có ai còn nghĩ
và nhớ tới thầy, hay chính những người bạn cũ mà Ngô Quang Nghiêm đã tìm
được trong chuyến về thăm cách đây năm năm, các người học trò cũ của thầy cư xử
với nhau thế nào trong suốt nửa thế kỷ qua. Theo Ngô Quang Nghiêm thì những
người ở lại ngoài Bắc, ở lại ngay Cẩm Phả dường như không ai giữ liên lạc với
ai. Có một hai người tương đối khá giả và là người có quyền thế, nhưng phần lớn
đều khó khăn chật vật như Trần Đăng Mô. Phần chúng tôi, bẩy người học trò của
thầy di cư vào Nam còn sáu, vì chị Thúy chẳng may mất sớm. Sáu đứa chúng tôi
còn lại dù có địa vị cao hay thấp trong xã hội miền Nam, ít nhất không một ai
trong chúng tôi làm thầy phải thất vọng về tình đồng môn dưới cái bóng của thầy.
Sáu
người chúng tôi ở trong Nam có thể vì đường đời đã phân tán chúng tôi ra khắp
bốn phương trời, mười phương đất, nhưng chúng tôi vẫn giữ được tình bạn thời
thơ ấu. Mỗi lần tôi qua Dallas, nếu Ngô Quang Nghiêm biết thì không thể nào tôi
trốn thoát anh một bữa ăn, còn nếu Nghiêm từ Dallas về chỗ tôi chơi thì thế nào
anh cũng tới tìm tôi nơi tòa báo. Trần Tuấn Phong ở gần tôi hơn, tuy chúng tôi
không gặp mặt nhau thường, song thỉnh thoảng chúng tôi vẫn liên lạc với nhau
mật thiết. Phong và Nghiêm vẫn giữ được nghề cũ. Chu Quang Trung cũng ở gần
tôi, thỉnh thoảng anh đọc một cái gì của tôi mà anh cho là được, thì thế nào
anh cũng mò tới tòa soạn, lôi tôi đi ăn trưa rồi chúng tôi nói chuyện cũ. Hai
anh em Nguyễn Đức Thìn và Nguyễn Đức Phúc là hai người học trò sau chót của
thầy Phái đã di cư vào Nam năm 54, Thìn di tản năm 1975, Phúc vượt biên
sau năm 75 khá lâu, và hiện tại hầu như toàn bộ đại gia đình của Thìn và Phúc
định cư ở Oklahoma. Tôi dùng chữ đại gia đình của Thìn và Phúc có nghĩa là hai
anh đã có dâu, có rể, có cháu nội, cháu ngoại đầy đàn. Thìn chẳng những là bạn
học cùng lớp với tôi ở Cẩm Phả, ở Nguyễn Trãi, ở Chu Văn An và sau cùng còn là
bạn cùng Khóa, cùng Đại Đội ở Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Có một dạo tôi
thất nghiệp thợ tiện, lại chưa đi làm báo, từ Oklahoma Thìn liên lạc với tôi rủ
tôi sang Oklahoma làm thợ tiện với anh.
Nửa thế
kỷ qua đi như một cái chớp mắt, hương linh thầy tôi giờ đây đang ở một nơi an
bình nào đó. Mỗi năm trong ngày giỗ thầy em Tần con gái đầu của thầy thường mời
Trần Tuấn Phong và Trần Tuấn Lưu tham dự. Lưu là em ruột Phong, cũng là học trò
thầy Phái sau chúng tôi một năm, nhưng chưa kịp thi Tiểu Học thì cuộc di cư đã
nổ ra trên đất Bắc. Lưu mới thật là học trò cưng của thầy Phái. Sau này vào Nam
Lưu nưong theo con đừong đi trứoc của Phong, cũng theo Y Khoa. Sang đây học lại
nghề cũ, trở thành một bác sĩ có tiếng về ung thư, và đã có một thời giảng dậy
tại trường UCLA. Cách đây vài năm bác sĩ Trần Tuấn Lưu mất vì ung thư. Thật là
sinh nghề tử nghiệp. Anh dậy về ung thư, sống với ung thư rồi mất vì ung
thư. Lưu đã nhanh chân đến trước với thầy, nên vài năm nay trong ngày giỗ thầy
chỉ có vợ chồng Tần và Trần Tuấn Phong. Sau khi đọc loạt bài ký của tôi nhắc
đến trường xưa, nhắc đến thầy cũ, năm nay Tần mời tôi đến ăn giỗ. Thế nào tôi
cũng rủ thêm Chu Quang Trung cùng đến, để nhìn lại di ảnh của thầy, người đã mở
mắt cho hàng vạn học trò từ Bắc vào Nam, từ Cẩm Phả tới Quảng Ngãi, Quảng Đức,
Sài Gòn.
Đứng
trên thềm trường cũ, tôi tự hỏi cùng được học một thầy mà tại sao các bạn ở lại
ngoài ấy đối xử với nhau lạnh nhạt quá. Nghiêm cho tôi biết cũng có vài người
giữ địa vị khá cao trong guồng máy địa phương, nhưng không một người nào thăm
hỏi người nào, còn nói gì đến cưu mang, đùm bọc lẫn nhau là một điều xa xỉ.
Đứng
trên thềm trường cũ, nhìn mấy cây bàng con mới nhú trong sân trường, thay thế
cho những cây bàng cổ thụ đã mọc ở đây từ hơn nửa thế kỷ trước, tôi hiểu rằng
một thời đại đã qua đi, nhiều thế hệ đã nằm xuống. Những con người mới của xã
hội mới đã và đang ầm ầm lao tới...
Hoàng
Khởi Phong