Cửa
động Phong Nha (Quảng Bình) – Nguồn: Wikipedia
Dân
ca Việt Nam phần
nhiều xuất phát từ những câu, những bài
ca dao. Hai câu “ Chim quyên ăn trái nhãn lồng, Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi “đã được phát triển thành bài
dân ca Lý chim quyên bằng cách lặp lại, thêm vào
từ đệm, nhấn nhá, luyến
láy:
Chim quyên ( guầy ) ăn trái ( guây ), nhãn ( í a ) nhãn lồng ( à ), nhãn ( í a ) nhãn lồng ( à ) ơi con bạn mình ơi.
Thia
lia ( guầy ) quen chậu
( guây ), vợ ( í a ) vợ chồng, vợ ( í a ) vợ chồng, ới con bạn quen hơi.
Và
đoạn sau được thêm
vào :
Chim quyên ( guầy ) xuống suối ( guây ), tha ( í a ) tha mồi, tha (í a ) tha mồi, ơi con bạn mình ơi
Thương em ( guầy ) lao khổ ( guây ), anh (í a ) anh ngồi, anh ( í a ) anh ngồi, ơi con bạn chẳng yên.
Chim
ơi chim xa rừng, chim thương núi nhớ non,
Người cách xa cội nguồn (à), người cách xa xội nguồn, ôi đau khổ có gì buồn hơn, ôi đau khổ có gì buồn hơn.
Bài dân ca Lý con sáo được phổ biến với nhiều
làn điệu khác nhau của
khắp ba miền Bắc Trung Nam xuất
phát từ hai câu
:
Ai
đem con sáo
sang sông
Để
cho con sáo
sổ lồng bay xa.
Tương
tự như thế là trường
hợp bài Lý ngựa ô, được
hát với các làn điệu khác nhau của miền Bắc, của Huế,
của Quảng, của Nam Bộ…
, nhưng phần lời ca thì tất
cả đều dựa trên hai câu :
Ngựa
ô anh thắng kiệu vàng
Anh tra khớp bạc, đưa nàng về dinh.
Từ
chỉ hai câu
phát triển thành
cả một bài ca, sự sáng tạo của “ tác giả ” khuyết danh thật đáng khâm phục. Tuy thế,
dân ca cũng có khi lấy cả một bài,
và nếu tách phần nhạc
đi vẫn có thể đọc như một tác phẩm viết,
có điều là dân
ca - ca dao được phổ biến trước hết là bằng
cách truyền miệng, tức là chấp
nhận nhiều dị bản. Mặt khác, dân ca – ca dao xuất phát từ những vùng
miền khác nhau nên
ngôn ngữ mang tính
địa phương, bài của vùng
miền này có thể khó hiểu với nguời ở vùng miền khác thành ra có khi cần phải “ phiên dịch ” từ tiếng Việt sang tiếng … Việt, nghĩa là từ tiếng địa phương sang tiếng phổ thông thì mới hiểu được.
Bài viết này giới thiệu một bài dân ca – ca dao nghe được ở Quảng Bình.
Khoai
to bồn thì tốt
cộ
Đậu
ba lá thì vừa
un
Gà mất mạ thì lâu khun.
Gái
thiếu trai thì thậm
khổ.
Trai
thiếu gái cũng
thậm khổ !
Trời
sinh voi thì sinh
cỏ
Trời sinh giếng thì sinh
mo
Trời sinh sông thì sinh đò.
Trời
sinh O thì sinh
tui.
O một mình cũng khôn đặng
Tui
một mình
cũng khôn đặng.
Gió
ngoài
biển hắn dồn vô
Mây
trên
trời hắn cuốn lại.
Cái
đặc điểm của
ngôn ngữ mang tính
địa phương như đã nói ở bên
trên thể hiện ngay ở
ba câu đầu tiên
:
Khoai to bồn thì tốt cộ
Đậu
ba lá thì vừa
un
Gà mất mạ thì lâu khun.
Xin
phiên dịch ngay : Bồn còn gọi là vồng
, có nơi gọi là rò , cộ = củ, un = vun (đắp cao lên
), khun = khôn.
(
Thời kỳ 1978-1980, người viết mới thuyên chuyển
vào miền cao, khi hướng dẫn học sinh lao động - trồng cà rốt - đã được anh em đồng nghiệp dặn dò:
Anh nhớ cho học
sinh lấy vá lên
rò cho cao, mà có đem theo bình xoa
không đó. Phải nhờ giải thích mới hiểu được : vá là cái xẻng, cái xuổng. Lâu nay chỉ dùng vá
để múc canh ( ngoài Bắc lại
gọi là môi hay muôi
) ở đây dùng
để xúc đất, còn
rò
là vồng, là bồn, bình xoa = thùng tưới, bình tưới, hẳn là mượn tiếng Pháp, arrosoir . )
Vậy
thì ba câu mở đầu này chẳng là gì khác
những kinh nghiệm dân gian trong chăn nuôi, trồng trọt, vốn là một nội dung thường gặp trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam. Trồng khoai đắp vồng cao lên
sẽ có củ lớn, gieo hạt đậu lúc cây mọc được ba lá hãy bắt đầu vun gốc, đừng tách gà con khỏi mẹ sớm quá chúng sẽ chậm khôn.
Những kinh nghiệm
tuy đơn
giản nhưng không phải ai cũng biết, cũng thực hành được. Điều đáng nói là ở cách diễn đạt. Hãy để ý từ "thì" lặp lại ở ba câu. Mới tập viết văn ai cũng được nghe dặn là viết tiếng Việt nhớ đừng dùng
thì, là, đừng có viết Chị tôi thì / là đẹp theo kiểu tiếng Anh, tiếng Pháp My
sister is pretty, Ma sœur est belle. Đúng trong ví dụ này nhưng trong mấy câu ca dao trên làm
sao bỏ chữ thì được
:
Khoai
to bồn thì tốt
cộ
Đậu
ba lá thì vừa
un
Gà mất mạ thì lâu khun.
"Thì "ở
đây biểu thị quan hệ điều kiện : Nếu trồng khoai mà đắp vồng to lên, khoai sẽ có củ lớn, hoặc là quan
hệ
về mục đích : Muốn có củ lớn thì nhớ
đắp vồng to. Một cách lập
luận chặt chẽ,
dẫn đến một lẽ
đương nhiên
: Có A ắt hẳn sẽ có B, muốn có B thì phải có A. Cũng cách diễn đạt đó, ca dao còn có câu :
Muốn
sang thì bắc
cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
Nhiều
người chê chữ thì và tự
ý thay bằng
chữ phải, vừa thô bạo, vừa khiên
cưỡng :
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy !
Đoạn
kế tiếp sẽ cho thấy toàn
bài là lời lẽ của một người con trai nói với một cô gái. Anh chàng bắt đầu bằng chuyện cỏ cây, thú vật, rồi
đột ngột chuyển qua chuyện con người :
Gái
thiếu trai thì thậm
khổ.
Cũng
cái chữ "thì"
đó, cũng lối nói quyết
đoán, không còn
gì để bàn cãi
đó. Nếu ai cũng
thừa nhận những kinh nghiệm dân gian nói trên thì làm sao không tin ở nhận xét khách quan này:
Gái
mà thiếu trai là khổ vô cùng, nói cho mà biết đó – nghe như lời cảnh báo, đe dọa ! May mà anh vội
nói tiếp vế
ngược lại:
Trai
thiếu gái cũng
thậm khổ !
Vậy là đã rõ, cả hai phía đều khổ như nhau, bởi lẽ cả hai phía đều cần nhau. Anh giải thích :
Trời
sinh voi thì sinh
cỏ
Trời sinh giếng thì sinh
mo
Trời sinh sông thì sinh đò.
Mo
ở đây là cái mo cau, cái bẹ bọc quanh buồng cau, có rất nhiều công dụng. Còn non, mo hơi mềm có thể dùng để ém cơm cho dẻo,
cho chắc,
có thể để dành
ăn dần, rất tiện nếu mang đi
đường . Khi già,
mo cứng và dai,
cắt và xếp lại làm gàu
thả xuống giếng múc nước. Cũng có thể cắt làm quạt,
cái vật dụng tầm thường, đơn giản mà giá
trị rất lớn, có thể đổi lấy
ba bò chín trâu, một xâu
cá mè, một bè gỗ lim, hay một con chim đồi mồi, như cái quạt mo của Thằng Bờm. Trẻ em ở thôn quê còn lấy cái mo, dính với cả tàu
lá cau, chơi trò kéo
xe : một đứa ngồi lên
mo, một đứa cầm tàu
lá kéo chạy. Mo cau còn một công dụng bất ngờ nữa : trẻ hư bị đòn roi quất vào mông chỉ việc lấy mo lén nhét vào quần, che cái mông đi và sẵn sàng
chịu vài chục roi không hề hấn gì !
Chàng trai giải thích việc trai và gái thiếu nhau thì đều khổ vì đều cần đến nhau bằng cách đưa ra những dẫn chứng sinh động,
dễ nhìn thấy, dễ cảm nhận,
khó bài bác, khó tranh cãi : Có voi ắt sẽ có cỏ, có giếng ắt sẽ có
mo, có sông ắt sẽ có đò. Nhưng điều anh
muốn
nói nhất không phải chỉ
chừng đó, mà là :
Trời
sinh O thì sinh
tui.
Tiếp
theo chuỗi lập luận trên
tất phải hiểu : Có O ắt sẽ có tui. Đối với dân miền Trung, cái chữ O này hay lắm. Viết chữ O như vẽ hình tròn
, mà phát âm thì hai môi cũng phải tròn lại. O tròn
trịa và chất phác, O tròn
vẹn và chung thủy, O tròn
trĩnh và dễ
thương, O tròn trặn và no đủ.
O là chị
hay em gái của ba ( chỉ một O thôi, không phân biệt em gái ba là Cô
mà chị là Bác như người miền Bắc ).
O cũng là Cô, O con gái = cô con gái , có khi được dùng như đại từ nhân xưng. Quen gọi O mà lạ
cũng gọi O. O ơi, O nớ ơi. Thân cũng O mà sơ
cũng O.
Không
ngó anh răng
nhìn
xuống đất ?
Đất
có chi đẹp
đẽ mô nờ .
Theo
nhau từ hôm nớ hôm tê.
Anh
hỏi mãi
răng O không
nói ? ( Mường Mán)
Gần
cũng O mà xa cũng O. O có nhớ anh / tui không ? Nhưng dù lạ
hay quen, dù thân hay sơ, dù xa
hay gần
thì O lúc nào
cũng ngọt ngào,
đằm thắm.
Trời
sinh O thì sinh tui.
Xưng
tui và gọi người kia là O. Cách nói thận trọng mà không xa cách, bạo dạn mà không
suồng sã.
Còn nội dung thì rõ ràng và dứt khoát : Có o ắt sẽ có tui. Tui cần o mà o
cũng cần tui. Anh chàng tiếp tục cái giọng cảnh báo, đe dọa nhẹ nhàng bên
trên :
O một mình cũng khôn đặng
Tui
một mình
cũng khôn đặng.
Cuộc
đời tất nhiên
là phải có o có tui. Như là một hoàn cảnh đã định sẵn, một số phận đã an bài. Nhưng không thể việc ai nấy làm,
đường ai nấy
đi. Không thể, không được, khôn đặng. O
không
thể một mình,
tui cũng không thể một mình.
Bởi nếu như thế, cả hai chắc
chắn sẽ phải đương đầu với vô vàn khó khăn trở ngại :
Gió
ngoài
biển hắn dồn vô
Mây
trên
trời hắn cuốn lại.
Đâu
phải chỉ là những khó khăn đời thường, cô đơn, lạnh lẽo,
túng thiếu, ốm đau. Trầm trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều, mãnh liệt hơn nhiều, nghiệt ngã hơn nhiều. Đó là gió mưa, bão táp, mối đe dọa thường xuyên
không biết lúc
nào ập đến. Đó là mây đen, bóng tối che phủ những ước vọng bình
yên. Xin để ý từ “ hắn ” lặp lại ở hai câu trên, thường hắn chỉ dùng
để nói về người, ở đây gió mây được gọi là hắn
nghĩa là được xem như là người
: sự đe dọa của thiên nhiên
đất trời sẽ ghê gớm
hơn nếu có thêm
yếu tố con người,
dữ dội, tàn
khốc, khó lường, khó tránh.
O một mình,
tui một mình nguy hiểm như thế đó, đáng sợ như
thế đó. Vậy thì …
Vậy
thì sao, chàng trai bỏ lửng. Bài dân ca - ca dao kết thúc mà không đưa ra kết cục nào. Thôi đành chờ phản ứng của cô gái. Một nụ
cười ( muốn hiểu sao thì hiểu
)? Một cái lắc đầu ? Hay làm
thinh ( là tình đã thuận ) ? Ai mà biết. Trong khi chờ đợi hãy đọc lại cả bài
:
Khoai to bồn thì tốt cộ
Đậu
ba lá thì vừa
un
Gà mất mạ thì lâu khun.
Gái
thiếu trai thì thậm
khổ.
Trai
thiếu gái cũng
thậm khổ !
Trời
sinh voi thì sinh
cỏ
Trời sinh giếng thì sinh
mo
Trời sinh sông thì sinh đò.
Trời
sinh O thì sinh
tui.
O một mình cũng khôn đặng
Tui
một mình
cũng khôn đặng.
Gió
ngoài
biển hắn dồn vô
Mây
trên
trời hắn cuốn lại.
O với tui cùng cuốn lại.
Lần
này thêm một câu : O với tui cùng cuốn lại. Có
phải vẫn là lời chàng
trai, anh không bỏ lửng mà chờ
lúc bất ngờ nhất mới nói tiếp, nghe như rủ rê, mời gọi ? O đừng một mình, tui không một mình, O với tui cùng cuốn lại thì sá gì gió
dồn với mây cuốn.
Bởi mây trên trời
hắn cuốn lại là tối
tăm, cuồng nộ, còn O với tui cùng cuốn lại là đùm bọc, chở che, chia sẻ, là sẵn sàng
cùng nhau đương đầu mọi
gian nan khốn khó. Có chút gì tinh nghịch mà thật lòng,
táo bạo và thuyết
phục.
Có
điều là không hiểu văn bản
gốc đã có câu này hay là trong quá trình lưu truyền ai đó đã thêm vào ? Tuy nhiên,
cho dù thực tế thế nào đi nữa thì rốt cuộc vẫn phải chờ phản ứng của cô gái. Một nụ cười (
muốn hiểu sao thì hiểu
)? Một cái lắc đầu ? Hay làm
thinh ( là tình đã thuận) ? Ai mà biết.
THÂN TRỌNG SƠN
11 / 2008
THÂN TRỌNG SƠN
11 / 2008