Wednesday, August 26, 2015

153. TRẦN YÊN HÒA Truyện ngắn XÃ TRƯỞNG TÂN TRUYỆN


TRẦN YÊN HÒA
Xã trưởng tân truyện


Buổi họp bạn trường đại học rất đông anh em. Những người đã từng có một thời trai trẻ, có lớp trên, lớp dưới. Kha là dân mới qua Mỹ được mấy tháng, anh còn đang lao đao chuyện chỗ ăn, chỗ ở, cũng như công việc làm ăn. Ở nhà người anh họ không được nên Kha lên nhà anh Ngàn ở tạm, ảnh nhờ lên ở giữ nhà gìùm cho ảnh khi ảnh về thăm VN. Một căn nhà house có khu vườn phía sau rộng trồng đầy cây ăn trái và rau xanh.
Lúc họp bạn đông vui, anh Tiễn buộc miệng hỏi Kha:
- Kha qua đang ở đâu? Đã thuê nhà chưa, đã ổn định chưa?
Kha đáp:
- Đang ở tạm nhà anh Ngàn.
Hàng loạt mấy người cùng lớp với anh Ngàn la lên:
- A, ở nhà thằng xã trưởng.
Kha nghe nói vậy và tự hiểu, xã trưởng là biệt danh, của bạn bè cùng lớp đặt cho anh Ngàn. Ở trường đại học ra, đứa nào cũng có một biệt danh. Biệt danh để chọc nhau chơi mà cũng đúng y chan với con người, với tính tình từng đứa. Như ở lớp Kha, lớp đệ nhị, có biết bao nhiêu tên tuổi được lưu truyền. Thằng Thời mập được gọi là thằng nhái bầu, nhìn thằng Thời là tưởng tượng ngay đến con nhái mập ú ù. Thằng Chung có cặp mắt hí hí giống Đại Hàn nên được gọi là Chung Li. Thằng Toàn hăng rô, hô răng. Thằng Thông “loa che lửa”, rồi thằng Minh ống nhổ, thằng Đồng đại liên vì nó nói chuyện như đại liên bắn ra phanh…thằng Hoan trâu nước …Hơn ba trăm thằng con trai ở đó gần ba năm trời, ăn ngủ cùng nhau, tạp dịch cùng nhau, bò lê bò càng chung quanh vũ đình trường cùng nhau, leo đèo lội suối cùng nhau làm sao mà quên nhau được, ai mà chẳng có một biệt danh.
Nhìn anh Ngàn, Kha quan sát và suy nghĩ. Xã trưởng là biệt danh của anh thật đúng y chan, nghĩa là dáng dấp đó đúng là dáng dấp của một xã trưởng thời chế độ cũ, cao hơn cấp thôn ấp một tí mà không hơn cán bộ cấp quận được. Người lùn thấp, trán bắt đầu hói, tóc chải hất ra phía sau, dáng đi lệch bệch, mới trên năm mươi mà đầu xã trưởng bắt đầu hói đậm.

*

Hồi ở trại tập trung ra, không có việc làm, Kha ra chợ cùng bán sạp hàng quần áo với Diên. Gọi là sạp hàng cho ra vẻ chớ thật ra đó chỉ là một cái kệ nhỏ, có giá treo áo quần. Mặt hàng chỉ lèo tèo đâu mấy chục bộ quần áo trẻ con, ngày nắng thì còn bán được chứ ngày mưa khu chợ lầy lội vô cùng, chẳng có khách nào đến mua. Vợ bán, chồng chạy hàng cũng đắp đổi qua ngày.
Một buổi chiều Kha đang đạp xe xuống đường Lê Văn Duyệt để lấy hàng thì anh thấy một cô gái đạp xe ngược chiều, trông giống Khanh quá. Khanh là bạn của Diên. Khanh và Diên thân nhau rất đậm, học chung lớp, chung trường liền mấy năm trung học. Sau này Diên lấy Kha, mối tình đó có sự chứng kiến của Khanh, nên Khanh và Kha có chút thân tình. Từ ngày trời sụp đến nay cũng tám, chín năm không gặp lại Khanh, nên Kha quyết chí quay xe lại, coi cô gái đó có phải là Khanh không. Khi bắt kịp người con gái đi trước, anh gọi to:
- Khanh, Khanh. Có phải cô Khanh đó không?
Khanh cũng dừng xe lại và nhận ngay ra anh:
- Ủa, anh Kha, lâu quá mới gặp anh. Anh ở đâu? và Diên bây giờ thế nào? 
Thật ra thì đôi bạn cũng thất lạc nhau từ ngày đất nước “đứt phim”.  Hồi trước Khanh dạy một nơi, Diên dạy một nơi, nhưng hai người vẫn liên lạc, khi thì viết thư, khi thì hỏi han nhau qua bạn bè. Đến ngày đứt phim thì cuộc đời trôi giạt quá đổi, mỗi người cố giữ lấy cái nghề để kiếm miếng cơm mà bỏ vô miệng cũng là điều khó khăn. Khanh thì tiếp tục dạy học đâu ở trên vùng cao nguyên, còn Diên thì với ba đứa con thơ dại lê thê lếch thếch về quê chồng làm ruộng, có còn thì giờ đâu để nghĩ đến bạn bè. Trôi giạt, thật là trôi giạt, mỗi người một phương, một hoàn cảnh, họa hoằn lắm mới biết tin tức về nhau.
Diên về làm ruộng ở quê chồng, rồi không làm nỗi với cái nắng chói chan của mặt trời đổ lửa xứ miền trung, nên nàng bỏ ruộng đồng chạy sang buôn bán hàng xáo. Nghĩa là mua từng rổ khoai lang, từng rổ khoai mì, từng mủng lúa, mủng gạo của người nhà quê đem ra chợ bán. Chuyện buôn bán này cũng thật là may rủi, ngày được ngày không, lúc bán được thì mua lon gạo, mớ cá về cho con ăn, không được thì đem khoai lang về nấu cho cả nhà ăn đở đói.
Từ một cô giáo trung học đến một người buôn bán hàng xáo đã đẩy đưa Diên xuống chỗ tận cùng  ngắt ngứ, như con cá mắc câu không biết xoay xở cách nào. Thời gian này Kha đang bị tập trung cải tạo tại trại Long Giao, mấy lần trại cho thăm nuôi, Kha đều có gởi giấy báo về cho Diên đi thăm. Nhưng Diên lúc đó quá cùng kiệt, làm ăn không đủ để bỏ vào miệng bốn cái tàu há mồm, thì lấy tiền đâu mua vé xe, tàu. Chuyện di chuyển cũng rất khó khăn, phương tiện giao thông không có, đi lại phải có giấy phép xã ấp, cuộc sống con người lùi lại một khoảng thời gian khá xa. Người dân như sống trở về thời các vua chúa với những điều kiện hưởng thụ rất thấp. Trong buổi họp nào cán bộ cũng la lên ”nhà nước ta còn nghèo, phải khó khăn khắc phục”. Đi từ miền trung  vào trong nam để thăm thân nhân đâu phải dễ dàng gì, đã không có tiền đi xe còn phải mua quà cáp nữa, nên Diên không đi được. Thế là Kha trở thành “con bà phước” suốt mấy năm liền.
Nghĩ ra thì ai cũng đáng thương, nhưng thương nhất là Kha, đã gọi là đi ở tù thì làm sao được tự do, làm sao kiếm được miếng ăn, cho nên Kha rạt rày thấy rõ. Tôi tình nhất là trong trại tập trung, cái đói thật là ghê hồn, cái đói vật vã ghê lắm. Mỗi ngày chỉ được phát mấy lác khoai mì với một chút nước mắm ruốc lợn bợn rác rưởi, làm sao mà đủ sức để nuôi cơ thể cho được. Thèm một cục đường, một tép mỡ, một gói mì còn cao hơn thèm cao lương mỹ vị lúc bình thường, mà lại ở Long Giao, chỗ gần Sài Gòn, nơi quy tụ nhiều gia đình của những tù nhân cải tạo, nên thường được thăm nuôi ba tháng một lần. Cái khổ nhất của Kha là phải nhìn những gói lạp xưởng, những nồi thịt được kho ngon, những lác cá được chiên vàng um mà những người bạn tù được thăm nuôi đem vào cất ở chỗ ngủ, rồi mỗi lần họ ăn thì Kha càng khổ thêm.
Cái đói cái thèm nó dằng vặt ghê lắm. Một thân xác bình thường cũng đủ bị vật vã khổ sở lắm rồi, huống hồ gì thân xác Kha trên sáu chục ký lô mà từ từ sụt xuống còn ba lăm ký, là một chuyện vô cùng bi thảm. Những mảng da bị chảy xệ vì phần thịt và mỡ bên trong bỗng dưng biến mất, phần da còn lại trở nên nhễu nhão trông thật thảm hại. Cái bao tử hoài hũy kêu gào, riết róng, đánh vật Kha trong những cơn thèm khát vô bờ. Bạn đồng tù có thương,  cho anh vài cục đường, vài miếng thịt hay mời anh ăn cùng một bữa cơm là điều quá tốt rồi, đâu có dư để mà nuôi nhau hàng bữa. Cái bao tử lúc nào cũng xẹp lép chỉ làm quen với khoai mì lác hay bo bo lại nhào lên kêu gọi cá, thịt. Đối diện với những mùi thơm tỏa ra từ thức ăn của bạn bè được thăm nuôi, anh thường bỏ đi thật xa, đi vật vờ đâu đó. Nhiều khi cơn thèm khát quá độ, anh phải bỏ ra hố xí ngồi, cho sự tanh lợm hôi thối cùng độ đẩy anh ra khỏi cơn thèm khát ăn uống vô bờ này, nhưng điều đó chỉ là giai đoạn. Anh làm “con bà phước” dài dài, chỉ họa hoắn lắm thì mẹ anh hoặc chị anh mới đi thăm. Người mẹ trên bảy mươi tuổi, lưng còng dán đất mà còn phải lặn lội đi thăm đứa con trai ở trại tập trung, đó là những năm sau cùng của đời tù cải tạo.
Câu chuyện thăm nuôi đã khiến anh và Diên giận nhau. Hai người có hai hoàn cảnh như nhau mà cũng ngược nhau, lại không hiểu nhau gì hết. Như anh suốt bảy năm Diên không thăm nuôi, không thư từ, anh thấy mình sao bất hạnh quá, vì anh nghĩ, cái cùng khổ trong tù là cái cùng khổ nhất. Còn Diên khổ vì ba đứa con thơ dại, không đi thăm anh cũng được, nhưng sao Diên không viết thư, điều này khiến anh uất hận và cay đắng vô cùng. Nhưng Diên ở ngoài cũng quá rạc rày cùng lũ con lau chau lách chách. Nàng quần quật suốt ngày, xoay xở bên này, bên kia cũng không sao kiếm đủ vài lon gạo, vài ký khoai lang để nuôi ba con. Diên nghĩ, “dù gì đi nữa trong trại cải tạo mỗi ngày Kha cũng có được vài chén khoai mì mà bỏ vô miệng, chứ mình ở ngoài thì vô phương”. Làm sao hiểu hoàn cảnh nhau nếu không có chút cảm thông trong đó. Giận dỗi, hờn trách cùng thù hận cũng qua đi, đến ngày được thả về, Kha cũng về với Diên ở thành phố. Ngày đó, Diên đã về lại thành phố và nhuần nhuyễn trong chợ đời muôn mặt.
Kha đã cho Khanh địa chỉ nơi Diên bán ang và hình như hôm sau, hay hôm sau nữa là Khanh tới. Hai người bạn gái gặp nhau trong cuộc trường chinh của cuộc sống, cũng mười mấy năm, biết bao nhiêu chuyện để nói. Khanh cho Diên biết là Khanh vẫn còn độc than, ba mươi tám tuổi mà chưa có chàng nào tới rước nàng về dinh.
Một hôm Khanh dẫn tới chỗ sạp ang của Diên một người đàn ông đứng tuổi, giới thiệu cùng hai người:
- Đây anh Ngàn, bạn trai của Khanh, học lới đệ nhất trường Nguyễn Trãi, trước Kha một lớp đó.
Kha rất cảm động và vui mừng trông thấy, vì anh gặp được một người bạn cùng trường. Đối với anh bây giờ chỉ có niềm vui ở những người bạn cùng hoàn cảnh, cùng tù đày, cùng trường lớp. Những ngày tháng cũ như những vầng hào quang rạng rỡ một thời, bây giờ nó đã mất đi, nên thật quý hiếm. Những câu chuyện tâm sự rất đổi đậm đà. Đối với Kha đây là vấn đề tâm lý, gần bảy năm trói chặc đời chàng trong những ang rào kẽm, bây giờ được thoát ra cảnh đó và sống dưới tận cùng đáy xã hội, làm sao cấm anh nói chuyện đến những ngày đã cũ vàng son.
Kha rất cảm động, cái cảm động rất người của những người bạn một thời chinh chiến gặp lại nhau.
*
Anh Ngàn và Khanh vẫn trong tình trạng dậm chân tại chỗ, tấn thối lưỡng nan. Ngàn giữ ở lằn mức vừa phải, không mạnh bạo tiến tới  mà chẳng có dấu hiệu rút lui, khiến Khanh nhiều lúc thật nóng lòng vì hai người đã qua tuổi thanh niên, thế mà anh Ngàn vẫn án binh bất động. Anh chàng ấm ớ hội tề đến độ bí mật.
Sự ràng buộc của mối tình nầy là khi Khanh và anh Ngàn tới nhà Kha chơi. Diên và Kha đã se kết mối tình bằng cách thực tế là thỉnh thoảng cho Khanh và Ngàn ngủ lại. Khanh đến làm đồ ăn, Ngàn mua hột vịt lộn, Kha mua xị đế, thế là có một bữa nhậu tương đối cho bốn người. Kha và Ngàn nhâm nhi còn Khanh và Diên thì kể chuyện cũ thuở còn nữ sinh trung học. Cũng có thể là Diên và Khanh bàn với nhau cho anh Ngàn “vô thế”, như người ta đấu cờ tướng, khi bị đối phương cho vô thế là khó gỡ. Nhà của Kha thuê thì chật như cái hủ nút, cái giường hai mét của vợ chồng anh và ba đứa con cùng ngủ chiếm hết một khoảng rộng, nên Ngàn và Khanh phải trải chiếu ngủ dưới khoảng nền xi măng còn lại. Kha nghĩ là anh Ngàn và Khanh có ngủ với nhau cũng chỉ nằm nói chuyện, hoặc ôm ấp hôn hít cho đỡ thèm mà thôi.
Rồi tự nhiên anh Ngàn biến mất mấy tháng, Khanh cũng không đến nhà Diên, coi như đôi bạn bận công việc. Bỗng đột nhiên một buổi chiều mưa u ám cuối tháng mười, anh Ngàn xuất hiện đột ngột và báo tin “sẽ cưới Khanh”. Câu chuyện khá ly kỳ. Kha biết tình anh Ngàn bây giờ không còn là tình hoa bướm, hoa học trò, hoa phượng vỹ để tôn vinh, để lãng mạn một mối tình nữa. Qua nhận xét, Kha biết anh Ngàn có nhiều âm mưu ẩn chứa.
Anh Ngàn có lúc nói với riêng Kha, anh có kết một cô buôn bán trong chợ, anh muốn lợi dụng cô này để đi vượt biên. Nhưng cặp đôi này, ai cũng muốn lợi dụng người kia, bốn chín gặp năm mươi, nên chuyện không thành, Ngàn đành quay trở lại cưới Khanh.

*

Khanh được cho là cô gái hiền ngoan, dù nhan sắc trung bình, theo cái nhìn của Nam hồi còn học trò. Kha vẫn nghĩ lấy vợ như vậy là được rồi, và chuyện xã trưởng có thể kết thúc ở đây, nêu không có những khám mới của Nam sau này.
Khi mới qua Mỹ, ai cũng lo những thủ tục đầu tiên là lo giấy tờ cho hợp lệ, rồi điều cần nhất là phải có bằng lái xe. Anh Ngàn chuyên lo việc tập lái xe cho những người mới qua, và anh thường rêu rao:
- Ưu tiên cho anh em cùng trường. Lớp dưới chỉ lấy giá tượng trưng.
Kha hỏi lại:
- Vậy thì anh dạy tôi lấy bao nhiêu?
- Năm trăm.
Kha chửi thầm trong bụng: Thế thì tượng trưng cái khỉ mốc gì, chỉ nói xạo cho sướng lỗ miệng, giá vậy cũng bằng những nơi khác thôi, chỉ quảng cáo lấy tiếng, rồi thì vơ vào.
Nhưng anh lại nghĩ, thôi kệ, ở đâu cũng vậy, miễn tập lái xe đậu là được rồi.
Thế là Kha ngồi lên xe cho anh Ngàn hướng dẫn. Mới ngày đầu tiên mà anh đã kể lễ:
- Bà Khanh độ rày hỗn lắm, một điều là cải hai điều là cải.
Kha nói:
- Tôi thấy chị Khanh hồi trước hiền lắm mà.
 - Hiền khỉ gì, dữ như bà chằn lửa. lại còn nhỏ nhe, bủn xỉn.
Rồi Ngàn chuyển qua:
- Cả anh em bả ai cũng chẳng ra gì, hồi mới qua, thằng Thạnh em bả qua trước hồi bảy lăm, mà chỉ đem cho mấy chục chén bát cũ, thật là kẹo ra nước.
Rồi anh kể lung tung chuyện những ngày ở đảo, em trai của Thạnh là Thuật. Vợ và những đứa em gái vợ của Thuật đi chung với Ngàn cùng thuyền, vượt biên trot lọt qua đảo, ở trên đảo chung cùng một lán:
Anh Ngàn huênh hoang:
- Tụi nớ muốn ngủ với tau lắm, tối nào ngủ cũng khoèo tau mà tau đâu có rớ.
Thấy anh Ngàn đi lạch bạch như con vịt đẹt thế mà anh khoe nhiều người mê anh, tôi cũng nể phục anh ra mặt.
Anh nói thêm:
- Dạy lái xe, nhiều bà khoái tau lắm. Mấy bả ngồi cầm lái mà làm bộ rờ đùi tau, tau phải hất ra.
Đó là những chuyện xe cán chó trong lúc ngồi tập lái xe. Nghe anh Ngàn ba hoa chích choè về chuyện đàn bà cũng vui vui, cho qua thời gian. Nhưng có điều không biết những chuyện kia có thật hay không mà nghe ảnh nói ngon lành như vậy. Kha nghĩ, cũng buồn cho gia đình của những người bạn đã tin tưởng ảnh, cho vợ thuê ảnh dạy lái xe.
 Nhưng có một chuyện động trời, mà từ ngày Kha lên ở nhà anh Ngàn, Kha khám phá ra một điều khiến anh suýt ngã ngữa.
Trong một buổi tối buồn bã, Kha bật TV, không có chương trình nào hay, anh lục trên đầu giường thì thấy có một băng video. Kha liền bỏ tape vào máy, thì đây là cuốn phim gia đình của anh Ngàn, từ VN gởi sang.
Cuốn video quay lại cảnh miền quê Đại Lộc, có ông già, bà già anh Ngàn, những đứa con gái, những đứa con nít ngồi trên những cái ghế quanh một cái bàn dài. Ông già dáng vẻ nông dân, chất phát, nói tiếng Quảng Nam rặt ròng. Ông chỉ vào một con bé, khoảng mười hai, mười ba tuổi, ngồi đối diện với ông, rồi nói:
- Tau nói với thằng Ngàn ở bên nớ biết, mi phải nuôi con mi chứ, đẻ con ra bỏ nó cù bơ, cù bất như ri đâu có được. Đây là con gái mi nề, nó ốm o gầy mòn như thế này mà mi ở bên nớ ăn bơ sữa, mi không thương con mi sao. Mi phải gởi tiền về để tau cho nó vô Sài gòn học may chớ. Nó lớn sộ rồi nên phải tìm cho nó cái nghề, nhớ đó nghe. Đẻ con ra rồi mẹ đi đường mẹ, cha đi đường cha, mi làm như vậy coi sao được?
Nam ngớ người, tự nhiên anh cảm thấy mình như từ cung trăng rơi xuống, mất trọng lượng. Cứ tưởng là anh Ngàn còn thanh niên tươi rói khi cưới Khanh, không ngờ tay này cũng ghê quá thể.
Hôm sau, thằng Bích “lớp hai” tới chơi với Kha, Kha đem chuyện này ra hỏi thằng Bích, thì nó bô bô cái miệng kể một hơi dài:
- Thì tay Ngàn này hồi đi tù, có kết một con bên hình sự, vì tội làm gái. Khi được ra, tay Ngàn có tìm đến thăm, gặp nhau ngoài đời cô cậu hù hí với nhau đến có chửa. Tay Ngàn liền quất ngựa truy phong, nhưng cô biết quê Ngàn nên đem con giao cho ông bà nội nuôi. Vậy đó, mi không biết sao?.
Kha nói thật:
- Tau không biết thiệt.
Thằng Bích bồi thêm:
- Mi tưởng giả hiền lắm hả? Bợm lắm, đúng là bợm.
Chuyện như vậy đối với một người đàn ông, Kha đã gặp rất nhiều. Nhiều tay miệng nói đạo đức, xoen xoét nói ra điều cao đạo, thế mà bên trong lén lút chơi đĩ chạy làng, giựt dọc, lừa đảo bạn bè. Xã hội đủ mọi thành phần, đủ mọi chuyện, biết đâu mà lường.

*

Cuộc bầu phiếu của mấy lớp học trường Nguyễn Trãi diễn ra ồn ào, tuy chỉ là chuyện vác ngà voi, nhưng cũng rất sôi động. Một số tay anh lớp một thì lúc nào cũng đóng vai kẻ cả, thái thượng hoàng, làm lãnh tụ trong bóng tối. Trong số các tay đó, có tay ra mặt chỉ dẫn, lèo lái, khuynh loát, cố dựng lên một số người do họ xỏ mũi, như tên Vỹ, tên Luận, tên Hồng, có cả tên Ngàn cũng nhảy vô ăn có.
Lớp hai có người bạn tên Lục, bị tay Ngàn lên tiếng nói xấu thậm tệ. Ngàn hận thù Lục bởi vì Lục cùng quê, cùng tù, biết gốc gác xuất thân lừa đảo của Ngàn, nên Lục nói thẳng mọi lúc mọi nơi, là Ngàn một thằng đễu cán. Vây nên Ngàn quyết chí loại bỏ Lục bằng mọi cách. Cuộc đấu đá này làm những anh em có chút tự trọng bỏ de ra xa, nhổ nước bọt vào mặt những thằng người kia. Nhưng những tên thái thượng hoàng vẫn mặt trơ trán bóng, chạy nhảy xun xoe, như tên Luận, cố làm cao đạo của một lãnh tụ, núp trong bóng tối mà tâm địa ác khôn cùng. Như tên Vỹ bất chấp chút liêm sĩ cuối cùng, mồm loa mép dãi, cổ động khắp nơi, cố gian lận cho đám em chân tay dưới trướng, như tên Hồng bắt thằng em đại diện ghi phiếu gian, cố đấm ăn xôi.
Tay Ngàn nhảy xoi xói như con quay, chun chỗ này, rúc chỗ kia, cố đem hết thủ thuật lưu manh hạng nặng lừa đảo của mình ra gian lận trong vụ tranh quyền này. Ôi cai quyền lực ảo tưởng mong manh đó mà bốn thằng, Vỹ, Ngàn, Hồng, Luận chạy đôn chạy đáo để cho những tay chạy cờ đắc cử.

*

Thằng Lục sau đó có một câu nói với Kha:
- Kha nề, tay Ngàn mi đặt cho tên xã trưởng thì cao quá, với tư cách đó, khả năng đó, con người đó, chả làm ấp trưởng, thôn trưởng còn chưa xứng nữa, chứ xã trưởng làm sao nổi. Sao mi đề bạt chức vụ chả cao quá vậy.
Kha cười hề hề, nói với Lục:
- Tau đâu có đề bạt cho giả đâu, lớp giả đề bạt cho giả đấy chứ. Mà đúng! Đây là vở tuồng cải lương xã hội, có đủ bi hài, hỉ, nộ, ái, ố, lạc, dục mà. Chả không xứng đáng, cả về tư cách lẫn khả năng. Nhưng cho chả lên một bực như vậy để còn có chuyện để cười, chứ mi.

Trần Yên Hòa