MẶC ĐỖ
M ộ n g M ộ t Đ ờ i
Chân dung Mặc Đỗ
Photo by Trần Cao Lĩnh
Ngô
Thế Vinh quý mến,
Tôi gửi Vinh bài viết này để Vinh, người duy nhất đọc, sau đó cất giữ kỹ chờ tới khi thân xác tôi đã ra tro sẽ cho một báo nào Vinh xét nên để đăng. Nếu tình cờ khi đó có báo làm một số chủ đề về đời văn của tôi, bài này đứng chung với những bài khác, thì đẹp nhất.
Từ bao nhiêu năm nay tôi muốn viết ra nhưng thấy buồn quá, mãi tháng trước tôi nghĩ nên viết khi cái đầu còn thật tỉnh, viết rồi suy nghĩ biết Vinh thật tình với tôi và hiểu làng báo và những người làm báo nên trao tay Vinh. Vinh vui lòng nhận gửi gấm cuối đời của tôi…
Mặc Đỗ
Một
chú bé lớn lên hai vai đeo hai thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ mẹ dĩ nhiên và một ngoại
ngữ tình cờ quen khá sớm. Đồng thời lọt tai cũng khá sớm là những tình tiết
trong truyện Tàu. Quốc văn, Pháp văn cùng với Truyện in dấu sâu và đậm trong cuộc
đời chú bé đó. Vì mê thích nghe đọc truyện từ khi chưa biết đọc cho nên bắt đầu
đi học chú bé đã ham học để được đọc nhiều. Ngày một thêm quen đọc tự nhiên mọc
trong đầu chú bé, tuần tự theo tuổi lớn, ước vọng rồi đây cũng sẽ viết.
Có
hai sự việc xảy ra trong dịp Hè sửa soạn lên trung học, việc thường ngày dễ
quên đi nhưng hầu như định đoạt tương lai chú bé. Thằng bạn thân con một gia
đình Pháp ở gần nhà đi nghỉ mát, chú bé vắng bạn chơi, quanh quẩn ở nhà chả biết
làm gì, trên mặt tủ có một cuốn sách mỏng khổ nhỏ, cầm sách ra vườn tới ngồi gốc
cây đọc. Thấy nhan đề trên bìa sách chú bé đã toan đem trả lại trên mặt tủ
nhưng tò mò thử đọc vài trang, rồi mê mải đọc hết hơn hai mươi trang chữ nhỏ kể
nỗi khổ của một cô gái, bơ vơ về nhà chồng, trải qua bao nhiêu là xét nét, bắt
bẻ của bà mẹ chồng và hai cô chị chồng. Cũng phải đợi một ngày sau chú bé mới
có dịp hỏi Mẹ và được Mẹ cho biết về những cảnh làm dâu khá thông thường trong
xã hội ta thời đó ở tỉnh hay quê. Không phải một lần bà mẹ nói hết, rất nhiều dịp
sau đó hai Mẹ con ngồi gốc cây Mẹ kể con lắng tai.
Việc
thứ hai xảy đến sau ngày chú bé vắng bạn và bắt được cuốn sách lạ. Thằng bạn trở
về nhà, hai đứa lại thường gặp nhau. Một buổi trưa hai đứa ngồi đánh cờ ô-vuông
trên lầu trong phòng bạn chợt chú bé nghe vọng từ dưới sân sau lên giọng hò Huế.
Chú bé lắng tai câu được câu chăng nhưng cũng nghe rõ một câu: ‘Chiều chiều ra
đứng ngõ sau/Trông về quê mẹ ruột đau chín chìu.’
Câu
hò rất buồn thức động trong tim chú bé những điểm đã được Mẹ kể cho nghe về cảnh
làm dâu. Tiếng hò cứ như là sự thật hiển hiện từ miệng một nàng dâu bị tách biệt
với gia đình mẹ.
Ngay
sau khi từ nhà bạn trở về chú bé tìm Mẹ, nói chắc nịch với Mẹ: Lớn lên con sẽ
viết truyện, viết về những cảnh làm dâu. Đáp lời Mẹ nhắc phải theo nếp nhà học
hành đến nơi rồi mới chọn một nghề nào, chú bé hứa sẽ chăm học để có một căn bản
kiến thức đã. Tuy nhiên giọng hò trưa đó đã đưa lời phong dao vút cao trong trí
nhớ, ám ảnh mãi, song song với cố gắng học tại trường.
Hình 2: Di bút Mặc Đỗ gửi Ngô Thế Vinh
cùng với di cảo “Mộng Một Đời”, sau
này được biết
“Mộng Một Đời” đã được nhà văn Mặc Đỗ
cho phổ biến trước đó.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Trong
khi chăm chỉ thâu thái kiến thức trong sách vở chú bé cũng tìm đọc truyện để
gom góp hiểu biết về nghề viết qua nghệ thuật của những tác giả truyện. Cộng với
lời giảng của thầy ở trường qua những tác phẩm trong chương trình học, chú bé học
được thêm do ham mê đọc nhiều truyện Pháp văn và Pháp dịch trên những kệ sách ở
nhà. Đồng thời chú bé cũng ham đọc báo Việt ngữ và nhớ được khá nhiều chi tiết
về đời sống trong những tin hằng ngày. Hồi chú bé mới lên trung học nhật báo
nhà mua là tờ Trung-Bắc Tân-Văn. Cơ duyên đưa tới mắt chú bé một cơ hội học ảnh
hưởng mãi tới đời văn sau này. Trong một thời gian dài chừng cả năm, mỗi sáng mở
hai trang giữa của tờ báo bốn trang chú bé đều thấy một ô vuông giữa mấy cột
tin ngắn trên trang 2, ô vuông quảng cáo cho cuốn sách tựa đề ‘Mặt-Nạ Cộng-Sản.’
Chú bé hỏi anh được chỉ rằng ‘Cộng-Sản’ dịch từ Pháp communisme, lớn lên sẽ hiểu
rõ. Đã tò mò hỏi chú bé càng tò mò hơn bèn đến trường hỏi thầy.
May
mắn chú bé hỏi đúng một thầy rất quan tâm tới communisme. Gần trọn một buổi
sáng thứ năm trò đến tận nhà thăm thầy để hỏi. Thầy lấy từ trên kệ xuống một cuốn
sách đưa tay chú bé và bảo cuốn sách được quảng cáo là bản Việt dịch của cuốn
này, cuốn này lại là bản Pháp dịch của nguyên bản Đức văn, nhưng tác giả lại là
một người Bỉ. Thầy giảng rất kỹ về ý niệm cộng sản được đề ra từ xa xưa lắm lắm
nhưng mới được đem ứng dụng từ đầu thế kỷ Hai Mươi với những áp dụng chẳng tốt
đẹp còn quá xa với ý nghĩa ban đầu. Thầy cho mượn sách đem về đọc và hẹn đọc
xong sẽ trở lại thầy nói chuyện nữa. Trò đem sách về đọc kỹ, sáng thứ năm tuần
sau đến nhà thầy trả sách cùng với thắc mắc: Nhan đề cuốn Pháp dịch không giống
trên cuốn Việt dịch với tựa đề Le Masque du Communisme, phải chăng hai cuốn
khác nhau. Thày cầm sách mở trang bìa chỉ một hàng chữ nhỏ: Tựa đề nguyên tác Đức
ngữ Moskau Ohne Maske bản Pháp ngữ dịch sát Moscou Sans Voiles chỉ thay Maske bằng
Voiles văn vẻ hơn, đúng điệu Pháp văn. Bản Việt dịch đổi hẳn ra Cộng Sản dễ hiểu
hơn đối với độc giả Việt-Nam. Tiếp theo thầy bày cho trò hiểu dụng ý của tác giả:
Thời âm mưu cướp quyền Nga hoàng những người sôviết Nga có tờ báo chui mang tên
Pravda (Sự thật) phơi trần tệ trạng của chính quyền. Lật đổ Nga hoàng rồi
Pravda trở thành cơ quan tuyên truyền chính thức. Tác giả bóc mặt nạ che đậy những
sự thật kể trong sách ngụ ý nói chế độ sô viết cũng đầy những sự thật tương tự
thời Nga hoàng. Sự thật bị Pravda đả kích của thời xưa và sự thật sôviết của thời
sau đều là sự thật. Chú bé ra về ngẫm lời giảng của thầy cứ lẩm nhẩm mãi: sự thật
thật. Ý nghĩa của ba chữ đó theo mãi bước đường trở thành nhà văn, trong trí nhớ
từ tuổi nhỏ cho tới khi thành người lớn. Sự thật nào cũng là sự thật, khi viết
ta cứ bày ra những mắt-thấy tai-nghe, mô tả rõ sự thật.
Chủ
ý đi tìm sự thật để viết vào truyện đã khiến chú bé, cho tới khi trở thành một
người trai khôn lớn, dồn hết mỗi thời gian ngoài học đường vào đi đây đi đó
quan sát đời sống và cảnh trí trên một phần lớn miền Bắc. Với chiếc xe đạp khá
nhẹ-kí đạp tới những nơi gần, xa hơn thì đưa lên mui xe-hàng hay toa hạng tư
xe-lửa rồi đạp tới nơi gần quanh, chú bé gặp người và ghi nhớ cảnh. Đây đó vùng
đồng bằng, quá lên trung du và, cũng có mấy lần có thể ở lại lâu, leo lên mấy địa
điểm Đông-Bắc như Móng-cái, Lạng-sơn, Tây-Bắc như Lào-cai vào sâu tận Chapa.
Đáng kể trong nhiều dịp đi đây đó có những cơ hội đến thẳng nhà quen hay được
người quen giới thiệu và được nghe nhiều, biết nhiều chuyện, gặp chính những
đương sự. Thu góp tài liệu không ghi nhớ trong mắt trong tai mà thôi, người
trai tự bày phương pháp viết hết ra giấy trong những cuốn vở học trò ‘Cent
pages’ rất phổ thông thời đó, những cuốn bìa xanh ghi về vùng tỉnh nhỏ và thôn
quê, bìa đỏ dành ghi mắt tò mò và tai lắng nghe tại thành phố. Ghi chép hết sức
chi tiết, chẳng hạn như có một cuốn riêng ghi tên chữ và tên tục của mỗi làng
xóm đi qua. Trong nhiều ngày ở lâu một dịp nghỉ Hè tại Đồng-đăng, thị trấn gần
Lạng-sơn sát biên giới Trung-Hoa với ải Nam-Quan, người trai quen thân với một
cô gái Thổ. Một chiều đứng bên góc mận chi chít quả cô gái hái quả mận chín cắn
một nửa rồi đưa tới môi bạn và hát lên câu phong dao: ‘Mác mận đây kin quá mác
mòi’ (Quả mận ăn ngon hơn quả mơ).
Lẽ
tất nhiên bạn ăn nửa trái của mình, và nhớ mãi mùi vị của câu phong dao, cũng
như những chi tiết khác trong những dịp đi thu góp tài liệu để dành viết. Hơn
mười năm từ trung học lên hết đại học người trai tích tụ được một kho tài liệu
ghi chép, và cất giữ như sách báo, tất cả chất đầy dưới gậm giường sắt cao cẳng
mỗi đêm ngủ.
Vừa
xong đại học người trai có một công việc thích hợp tại miền Nam. Nhận việc người
trai có chỗ ở riêng, một villa nhỏ không mất tiền thuê, và hằng tháng trương mục
ở Đông-dương Ngân-hàng lại khá no. Hơn thế nữa thời giờ ngoài việc còn rộng để
trau giồi khả năng thành nhà văn, mục đích chính trong đời. Để có thể viết người
trai cần tập cho có một văn phong riêng và một vốn chữ Việt dồi dào. Từ điển
Hán-Việt Đào-Duy-Anh 605 trang được người trai hầu như học thuộc. Luyện văn
phong người trai chọn phương pháp đúng nhất là dịch văn ngoại qua Việt văn. Mới
đầu dịch từng đoạn ngắn sau chuyển qua cách khó hơn là dịch toàn truyện. Gọn
gàng từng truyện Pháp hay Pháp dịch được chuyển qua Việt văn, chồng chất sau những
năm học tập. Vụ tập này sau được thiên hạ coi như một thành công trong nghề viết
của người trai. Mải mê học chữ và luyện văn người trai không quên những dự tính
sẽ dùng kho tài liệu đã thu góp. Kỹ thuật viết của những tác giả truyện đã dịch
giúp khá nhiều vào việc hoàn thiện trong đầu những cấu trúc cho năm truyện dài
dự định sẽ viết.
Hình 3: Di cảo “Mộng Một Đời”
với 3 trang đánh máy
và thủ bút Mặc Đỗ:
“Vinh giữ bản này làm kỷ niệm” [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Trở
lại trước khi dời Hànội vào Nam nhận việc vấn đề lớn của người trai là thu gọn
và cất giữ kho tài liệu dưới gầm giường ngủ. Người trai đến phố Hàng-Hòm tính
mua một cái thùng gỗ lớn bắt gặp hai cái thùng bề ngoài cũ nhưng rất chắc chắn
lại có khóa tốt với đủ hai chiếc chìa khóa của mỗi thùng. Nhà hàng cho biết đó
là thứ hòm tư trang réglementaire của binh sĩ Pháp. Tuy cũ nhưng khá rẻ người
trai mua liền hai cái hòm lính, đem về xếp vừa đầy chỗ cho mớ tài liệu. Hai chiếc
hòm được gửi lại nhà cha mẹ. Bà Mẹ bấy lâu vẫn để mắt dõi theo công khó chuẩn bị
viết truyện của cậu cưng, hai hòm tài liệu sẽ được Mẹ lo cất giữ cho.
Bao
nhiêu là thay đổi lớn đã xảy ra trên đất nước từ sau ngày người trai dời Hànội.
Khi người trai trở lại bộ mặt thành phố thân yêu cũng không thay đổi mấy ngoài
sự hiện diện khác xa trước của đông binh lính Pháp, khá nhiều bộ mặt Phi-châu.
Về
tới nhà bà Mẹ đã sẵn đợi. Con chưa kịp chào, mẹ chẳng nói, hai Mẹ con ôm nhau.
Mẹ bỗng òa một tiếng khóc, bốn dòng nước mắt chan chứa nặng muối mặn vì chuyện
mất mát do nửa ngôi nhà bị cố ý đốt cháy người con đã được cho biết từ trước.
Đám cháy bạo tàn âm ỷ trong mấy ngày, khi bộ đội rút khỏi Hànội, đã thiêu rụi
hai cái hòm tài liệu cùng với những đồ vật quý khác của gia đình. Mẹ từng quý báu
lượng giá bao nhiêu năm công lao của con, trong khi con hiểu rõ chẳng còn cách
chi viết ra được những ấp ủ, không riêng về thân phận những bà mẹ, những chị em
gái khổ, nâng niu trong dự định viết. Sau nhiều kinh nghiệm đã học được, qua những
tác phẩm đã đọc, người trai cần đề ra, với bao nhiêu chi tiết đã gom góp, những
cảnh đời lớn trong đó thướt tha những bóng dáng nữ. Trong đầu hai mẹ con lúc đó
chỉ còn thấy một rỗng không man mác đáng khóc hết nước mắt. Mộng một đời đã bay
theo luồng khói đen trong đám cháy ác ôn.
Sau
đó người trai lo mưu sinh theo khả năng nhưng không bỏ ham mê từ khi chưa biết
đọc và trải qua bao nhiêu năm học, tập. Mỗi khi in xong một tác phẩm người trai
đều đem tới trình Mẹ. Mẹ cầm cuốn sách trên tay ngắm nghía mặt bìa trước rồi lật
lại ngắm bìa sau, ngước lên nhìn con với tia mắt xót xa thốt ba tiếng buồn ơi
là buồn: Thôi cũng được!
Cuối
Thu Tân-mão 2011, tập truyện ngắn thứ ba, tác phẩm cuối đời, được in xong, một
bịch 20 cuốn mới ra khỏi nhà in Viên Linh gửi từ Cali qua. Tôi cầm một cuốn
trên tay, lật qua lật lại ngắm bìa trước bìa sau, mường tượng nghe ba tiếng yêu
thương buồn Mẹ nhiều lần nhắc: Thôi cũng được!
MẶC
ĐỖ
[Di cảo Mặc Đỗ gửi Ngô Thế Vinh]
Tham
Khảo:
1/ Tưởng Niệm Ngày Giỗ Đầu Nhà Văn Mặc Đỗ. Ngô Thế Diễn. Đàn Thế Kỷ
http://www.diendantheky.net/2016/09/ngo-vinh-tuong-niem-ngay-gio-au-nha-van.html#more
2/ Con Đường Mặc Đỗ, từ Hà Nội Sài Gòn tới Trưa Trên Đảo San Hô. Ngô Thế Vinh. Diễn Đàn Thế Kỷ
http://www.diendantheky.net/2015/06/ngo-vinh-con-uong-mac-o-tu-ha-noi-sai.html#more