NGÔ THẾ VINH
MÙA XUÂN TÂY TẠNG
VÀ CÂU CHUYỆN NHỮNG DÒNG SÔNG
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
If Tibet dries, Asia dies
Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết
[www.tibetanwomen.org]
Hình 1:Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất
[nguồn:
http://www.activeremedy.org]
CỰC THỨ BA CỦA TRÁI ĐẤT
Khoảng
ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới đáy biển Tethys nguyên là một đại
dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á và Ấn Độ. Do hành trình va chạm dữ
dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland và Laurasia tạo nên cơn địa chấn với
sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn lên phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn
và Cao nguyên Tây Tạng.
Với
lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ 3500 tới 5000m – được mệnh
danh là"xứ tuyết",“nóc của trái đất”, hay "Cực Thứ Ba / Third Pole"-- hai
cực kia là Bắc Cực và Nam Cực. Tây Tạngvới diện tích hơn một triệu km2 gần bằng
Tây Âu nhưng cô lập với thế giới bên ngoài bởi ba bề núi non hiểm trở: phía nam
là dãy Hy Mã Lạp Sơn, phía tây là rặng Karakoram, phía bắc là các rặng Kunlun
và Tangla;riêng phía đông cũng bị cắt khoảng bởi các dãy núi không cao và lũng
sâu và thoải dần xuống tới biên giới Trung Hoa,ráp gianh với hai tỉnh Tứ Xuyên
và Vân Nam.
Phía
tây bắc,Tây Tạnglà một vùng đất hoang đông giá, gần như không người no-man’s-land trải dài hơn 1200km từ tây
sang đông. Phía nam là vùng núi non với thảo nguyên, nơi sống của dân du mục với
các đàn cừu dê và những con bò Yaks. Phía
đông là tỉnh Kham và đông bắc là tỉnh Amdo (quê hương củaĐức Dalai Lama thứ 14) là vùng
trù phú và đông dân nhất. Thứ đến là vùng đất phía nam khí hậu bớt khắc nghiệt,
nơi có con SôngYarlung Tsangpo với những phụ lưu như một mạch sống.
Người
nông dân Tây Tạng chủ yếu trồng lúa mạch và khoai tây là hoa màu phụ. Khí hậu
thay đổi thất thường như mưa đá, đông giá nên mùa màng luôn luôn bị hư hại. Nguồn
thực phẩm ổn định hơn là nuôi gia súc ngoài đàn bò Yaks còn có trừu, dê và gà để
lấy trứng. Tsampalàm từ bột lúa mạch sấylà món ăn thường nhật của người Tây Tạng.
Quốc giaTây Tạng là hình ảnh mênh mông của những thảo nguyên với núi cao và
lũng sâu, bầu trời thường thì trong xanh như ngọc. Cho tới cuối thế kỷ 19, nếp
sống của họ vẫn vậy như từ hàng ngàn năm trước.
XỨ
SỞ CỦA ĐẠO PHẬT
Đạo
Phật du nhập vào Tây Tạng 12 thế kỷ sau khi Phật Thích Ca nhập niết bàn, khoảng
thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Khí Tông Cương Tán (Songtsen Gampo)là một tù trưởng
tài ba đã thống nhất được các bộ lạc trên cả một vùng băng tuyết tới chân Hy Mã
Lạp Sơn;ông cưới công chúa Nepal làm hoàng hậu và chính nàng công chúa này đã
du nhập đạo Phật vào Tây Tạng. Tây Tạng thời kỳ ấylà một quốc gia hùng mạnh khiến
vua Trung Hoa đời Nhà Đường cũng phải xin cầu hòa và gả công chúa cho Khí Công
Cương Tán, nàng công chúa gốc Hán này cũng đem đạo Phật vào Tây Tạng. Đạo Phật
từ đó đã phát triển rất mạnh trên vùng đất mới, hòa nhập với tín ngưỡng Bon đa
thần để biến thể thành một thứ đạo Phật cao siêu và thần bí.
Tới
thế kỷ 14 một vị chân tu tên Tống Cáp Ba – Tsongkhapa đã sáng lập nên phái
Hoàng Mão Hoàng Y của Phật giáo chính thống Tây Tạng. Sau khi ông mất, người kế
thừa cũng là một vị chân tu tên Gendun Drup được toàn thể giới tăng lữsuy tôn
làm Dalai Lama (Lama là một từ Tây Tạng có
nghĩa là bậc thầy), ông có công phát huy đạo Phật đồng thời cũng xây dựng được
một nền hành chánh kết hợp với giáo quyền trị vì quốc gia Tây Tạng. Vị đại sư
mưu trí này đã đặt ra quy luật tái sanh củaDalai
Lama theo đó khi chết linh hồn vị Dalai Lama
sẽ nhập vào một trẻ sơ sinh như hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm –
Bodhisatva Avalokitesara.
Tới
thế kỷ 16, do các giáo phái lại chống đối nhau dẫn tới sự can thiệp của quân
Mông Cổ, sau đó thì chính Đại Hãn Mông Cổ là Altan Khan do cảm phục kiến thức
cao sâu của vị đại sư nên cũng xin quy y, đồng thời phong tước cho vị Lama làDalai Lama– Dalai là từ Mông Cổ có nghĩa biển cả,
bao hàm kiến thức mênh mông.
Đây
là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Tây Tạng ghi dấu bằng công trình xây cất Lâu
Đài Mùa Đông – Cung Điện Potala 1000 phòng của các vị
Dalai Lama, được coi như một kỳ quan kiến trúc của thế giới.
Nhưng
về phương diện lịch sử thì ngôi Chùa Jokhang mới là di tích cổ kính nhất, được
xây dưới triều vua Khí Tông Cương Tán, nơi chứa tượng Phật do công chúa Nepal
thỉnh về.Kỳ quan của Jokhang không phải chỉ là các tượng Phật mà là tấm bia đá dựng
trước chùa như di tích lịch sử về một quá khứ hùng mạnh của quốc gia Tây Tạng,
đã từng gây khốn đốn cho các vua Trung Hoa đời nhà Đường. Trên tấm bia là bản
hiệp ước được phê chuẩn bởi Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm
821-822 khắc bằng hai thứ tiếng Tây Tạng và Trung Hoa với nội dung [Hình 2]:
“Thỏa thuận cùng nhau về sự liên minh
giữa hai quốc gia... tìm cách ngăn ngừa những nguyên nhân gây tàn hại cho hai xứ
sở bây giờ và mai sau, để mang lại hòa bình lâu dài cho thần dân hai nước. Thỏa
ước được khắc trên bia này để cho các thế hệ tương lai được biết tới.”
(1)
Hình 2:
Jokhang, ngôi chùa có lịch sử hơn 1,300 năm
ghi dấu một
thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng.
Tấm bia ghi
bản hiệp ước giữa Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa
vào năm 821-
822 đã bị phá huỷ.Jokhang,
cùng với lâu
đài Potala được UNESCO đưa vào danh sách
Di sản Thế
giới. [nguồn: internet]
Giữa
thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng [618-907] nơi đầu nguồn Sông Mekong thì
lúc ấy Việt Nam lại đang phải sống trong tối tăm nhục nhã dưới ách thống trị của
người Tàu với cái tên An Nam Đô Hộ Phủ. Việt Nam đã bị nô lệ Tàu tổng cộng 1050
năm trước khi lấy lại được nền tự chủ với các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần.
Nhưng
rồi cũng không tránh được lẽ thịnh suy, những thế kỷ sau đó Tây Tạng lại bị
Trung Hoa xâm lấn, thủ đô Lhasa thường xuyên bị chiếm đóng. Đến đầu thế kỷ 20,nhân
lúc triều đình Mãn Thanh bị cuộc Cách Mạng Tân Hợicủa Tôn Dật Tiên lật đổ, nhân
dân Tây Tạng đã lại vùng lên và tuyên bố độc lập nhưng bị đàn áp và đã gặp phải
sự thờ ơ đến tàn nhẫn của thế giới. Trung Hoa cho dù dưới thể chế chánh trị nào
vẫn xem Tây Tạng như phần lãnh thổ của họ.
MỘT
TÂY TẠNG ĐAU THƯƠNG
Năm
1933 khi vịDalai Lama13 viên tịch, tương
truyền rằng người ta thấy mặt ngài ngoảnh về hướng đông bắc, phía tỉnh Amdo. Kết
hợp với một số điềm báo triệu khác, các vị trong hội đồng giáo phẩm tới được
ngôi làng Takster tỉnh Amdo và họ đã tìm ra đứa trẻ hai tuổi là đứa con thứ tư
trong một gia đình nông dân nghèo khó, và sau một chuỗi những trắc nghiệm thử thách,
cậu bé Tenzin Gyatso sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935,được công nhận là hiện thân củaĐức Dalai Lama thứ 14.
Amdo
lúc đó đang thuộc quyền kiểm soát của quân Trung Quốc nên phải trải qua hai năm
thương thuyết khó khăn, cậu bé Tenzin Gyatso mới được rời Amdo lên thủ đô Lhasa
và được đưa vào Cung Điện Mùa Hè Norbulingka rồi Cung Điện Mùa Đông Potala để
được nuôi dưỡng và giáo dục đúng theo giáo lý bởi những vị cao tăng uyên bác.
Trong thời gian đó, một quan nhiếp chính được chỉ định để lo việc nước.
Tình
hình càng trở nên tệ hạikhi Tưởng Giới Thạch bị thua phải chạy ra đảo Đài Loan
(1949), Hồng Quân chiếm trọn Hoa Lục đồng thời cũng xua quân vào cưỡng chiếm
Tây Tạng với chiêu bài “giải phóng nhân
dân Tây Tạng đang bị giai cấp phong kiến áp bức.”
Và
đã có ngay từng đợt hàng trăm ngàn binh lính Trung Cộng tiến vào Tây Tạng, kéo
theo sau là gia đình của họ. Khác xa với hứa hẹn ban đầu bảo đảm tự do tín ngưỡng
và phong tục tập quán của dân Tây Tạng, họ mở ngay chiến dịch chống tôn giáo, đồng
thời thi hành “chánh sách tàm thực/ tầm
ăn dâu”không ngừng di dân gốc Hán vào đất nước Tây Tạng.
Năm
1950, do nhu cầu cấp bách của thời cuộc, ở cái tuổi mới 16, Tenzin Gyatso đã phải
rất sớm đứng ra đảm đương mọi trách nhiệm chánh trị điều hành quốc gia Tây Tạng. Năm 1954, Gyatso bị đưa sang Trung Quốc gặp
Mao Trạch Đông trong ý muốn thuyết phục vị Dalai
Lama trẻ tuổi ấy chấp nhận một xứ sở Tây Tạng sát nhập vào trật tự nước
Trung Hoa.
Trước
nguy cơ diệt vong, năm 1959 nhân dân Tây Tạng lại nhất loạt nổi dậy, nhưng đã bị
Hồng Quân trấn áp và tàn sát không thương tiếc. Trong cuốn tự truyện Tự Do
Trong Lưu Đầy – Freedom in Exile, Tenzin Gyatso viết:
“Trong gần một thập niên, ở cương vị
người lãnh đạo chánh trị và tôn giáo cho dân tộcTây Tạng, tôi đã cố gắng tái tạo
mối liên hệ hòa bình giữa hai quốc gia Tây Tạng và Trung Hoa, nhưng trách vụ ấy
không thể hoàn thành. Tôi đi tới kết luận là tôi sẽ phục vụ dân tộc tôi được
nhiều hơn nếu tôi sống ở nước ngoài.” (1)
Đức Dalai Lamathứ 14 đã dẫn hơn một trăm ngàn dân
Tây Tạng vượt biên giới thoát sang Ấn Độ. Bất chấp sự chống đối và cả hăm dọa của
Bắc Kinh, chánh phủ Ấn vẫn giúp định cư số người Tây Tạng lưu vong này nơi thị
trấn Dharmasala dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn. Một chánh phủ lưu vong Kashag được
hình thành như niềm hy vọng sống còn đối với người dân Tây Tạng trong nước.
Phía
Trung Quốc bất kể nguyện vọng dân Tây Tạng ra sao, họ vẫn sát nhập quốc gia này
vào “Nước mẹ vĩ đại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”Tháng 9 năm 1965, Bắc Kinh tuyên
bố lập “Vùng tự trị Tây Tạng – Tibetan
Autonomous Region” trực thuộc nước Trung Hoa. Điều ấy có nghĩa là quốc gia
Tây Tạng bị Bắc Kinh xoá tên trên bản đồ thế giới.
Và
rồi các giai đoạn thảm khốc nhất đã diễn ra trong suốt thập niên sau đó khi có
cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cả một di sản văn hóa của dân tộc Tây Tạng bị tận diệt
một cách công khai và có hệ thống bởi những đoàn Vệ Binh Đỏ. Các đền đài tu viện
bị phá trụi, các tranh tượng tôn giáo bị hủy hoại. Hàng chục ngàn người Tây Tạng
bị kết tội “phản động” vì không chịu lên án Đức
Dalai Lamavà từ bỏ đức tin của họ.
Theo
thống kê của Trung Cộng (1982) có 3.87 triệu người Tây Tạng, nếp sống đơn sơ và
hiếu khách nhưng họ là một dân tộc đang phải sống trong nô lệ và chịu nỗi khổ
đau vô hạn"trong nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa”.
Tháng
10 năm 1987, không còn kiên nhẫn hơn được nữa, dân Tây Tạng lại vùng dậy và
cũng lại bị quân chiếm đóng Trung Cộng đàn áp tàn bạo. Đã có khoảng 1.2 triệu
người Tây Tạng bị giết, một con số thật khủng khiếp nếu so với tổng số dân Tây
Tạng chưa tới 4 triệu.
Để
phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trong nước, Đức
Dalai Lamađã rời Dharmasala và du hành qua nhiều quốc gia trên thế giới
để nói lên nguyện vọng được sống trong độc lập và tự do của nhân dân Tây Tạng.
Tenzin
Gyatso chỉ nhận mình là một nhà sư giản dị, không bao giờ tự huyền thoại hóa
mình là Phật Sống. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, vẫn luôn luôn là một con người
nhu hòa không định kiến, vượt lên trên mọi khen chê. Ông là một con người giàu
lòng từ bi, hơn thế nữa là con người của tự do. Với tinh thần bất bạo động linh
hoạt – active non-violence, ông luôn
luôn cố gắng tái tạo mối liên hệ tin cậy và hòa bình với phía thù nghịch cho dù
Bắc Kinh không từ một thủ đoạn nào đểgây tai tiếng và bôi nhọ ông.
Hình 4:Jampa Yeshi, tên người thanh niên Tây Tạng đang
chạy như một ngọn đuốc trên một đường phố New Dehi 26.3.2012 đòi tự do cho nhân
dân Tây Tạng.Từ 2009 tới 2016, đã có 153 nhà sư và thường dân Tây Tạng tự thiêu
phản kháng sự chiếm đóng của Trung Quốc.[nguồn:AP, photo by Manish Swarup]
Cho
dù gần đây Trung Cộng cho xây dựng lại một số chùa chiền ở Tây Tạng bề ngoài
như một “sửa sai sau Cách Mạng Văn Hóa” nhưng chỉ là để phát triển kỹ nghệ du lịch;
cùng một lúc họ cho gài công an chìm vào khắp các tu viện, đi xa hơn nữa Bắc
Kinh còn cấm người trẻ đi tu và đồng thời cưỡng bách các vị sư già ngoài 60 tuổi
phải về hưu trong khi vẫn không ngừng rêu rao “Tự do tôn giáo là điều được ghi trong hiến pháp”.
Nếuchỉ
viếng thăm Tây Tạng “như một khách du lịch” và đi theo đoàn du khách với cô hướng
dẫn người gốc Hán thì mọi sự đều rất êm thấm, cũng như một số khách Tây Phương
– kể cả chánh trị gia lão thành Edward Heath cựu thủ tướng Anh, được Bắc Kinh tổ
chức cho đi thăm Tây Tạng, khi trở về nói mọi chuyện ở đó đều tốt đẹp. Họ nói
thật qua những điều dàn dựng và được phép cho thấy. Và bao giờ cũng vậy, những
điều cho thấy ấy là một sự dối trá trắng trợn.
TÂY
TẠNG VÀ BÀI HỌC AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ
Trong
khoảng hơn 20 nămtừ 1995,kể từ khi có mối quan tâm về con Sông Mekong dài hơn
4,800 km ấy, về phương diện địa dư chính
trị/ geopolitics, người viết luôn luôn xem Tây Tạng như một quốc gia, và con
SôngMekong chảy qua 7 quốc gia - thay vì 6.Nếu không kể Tây Tạng như một quốc
giađầu nguồn, một cách vô thức, cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên hợp thức hoá dã
tâm của Bắc Kinh muốn xoá Tây Tạng trên bản đồ thế giới.
Trong
buổi lễ trao Giải thưởng Nhân quyền Robert F. Kennedy ngày 9 tháng 11 năm 1998
tại Đại Học Georgetown, Đức Dalai Lamatỏ ý
ao ước được viếng thăm Việt Nam năm 2000. Điều đặc biệt hơn nữa làĐức Dalai Lamacòn có đề nghị với các học giả Việt
Nam hãy cung cấp cho các nhà sử học Tây Tạng những sử liệu liên quan tới mối quan
hệ giữa Việt Nam - Trung Hoa và Việt Nam - Tây Tạng.
Và
ai cũng hiểu rằngĐức Dalai Lama muốn nhân
dân Tây Tạng tìm đến "Bài học Việt
Nam", làm thế nào dân tộc Việt vẫn lấy lại được nền tự chủ sau cả ngàn
năm đã bị người Tàuđô hộ và quyết tâm đồng hóa. Đó như một "thông điệp hy vọng" của những người dân Tây Tạng đang bị
Trung Quốc áp bức như hiện nay. (4)
Nhưng
cũng đểthấy ngay một khác biệt sâu xa giữa hai quốc gia Việt Nam và Tây Tạng.Trong
hơn một ngàn năm bị đô hộ ấy, Trung Hoa chưa có nạn nhân mãn, Việt Nam vẫn là xứ
xa xôi còn bị coi là man di chưa xuống xa tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, chưa phải
đối đầu với "chính sách tàm thực di
dân Hán hóa” như thảm trạng hiện nay của Tây Tạng, khiếndân Tây Tạng đang
mau chóng trở thành thiểu số trong biển người Hán ngay trên chính quê hương của
họ. Với chiêu bài dân chủ nhân danh quyền tự quyết, nếu có một cuộc trưng cầu
dân ý diễn ra trên đất nước Tây Tạng do Bắc Kinh chủ xướng, thì đó là một
"cuộc tự sát" mà không một người dân Tây Tạng nào có thể ngây thơ chấp
nhận.
Đã
16 năm kể từ năm 2000, Đức Dalai Lamanăm nay
cũng đã hơn 81 tuổi, và không có cuộc viếng thăm nào củaĐức Dalai Lama tới Việt Nam.Chấp nhận hay không cuộc viếng thăm
ấy là một thử thách can đảm đối với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội. Đó cũng là
thước đo mức tự chủ của Việt Nam đối với Trung Quốc.
TÂY
TẠNG MẠCH SỐNG CỦA CHÂU Á
Các
con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây
Tạng. (2)
Phía
tây, gần rặng núi Kailash là hai con Sông Indus và Sutlej chảy về hướng tây nam
và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai
nước Ấn và Hồi.
Phía
nam là con Sông Yarlung Tsangpo hay “nguồn
tinh khiết”còn được mệnh danh là “con sông
cao nhất thế giới”,với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi
chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông mang tên Brahmaputra trước khi đổ
vào Vịnh Bengal, thuộc Ấn Độ Dương.
Phía
đông là khởi nguồn của các con sông lớn khác: Sông Dương Tử 6,500km dài nhất
Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải,
còn Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi sang đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả
hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.
Phía
nam là hai con Sông Irrawaddy và Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc
nam trước khi đổ vào Biển Andaman, những con đập thuỷ điện Made-in China nay
đang bắt đầu xiềng xích và huỷ hoại hệ sinh thái của hai con sông Miến Điện
này. [Hình 5]
Hình 5: Quốc
gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á
[nguồn:
Meltdown in Tibet, Michael Buckley, Palgrave MacMillan 2014]
Riêng
con Sông Mekongdài hơn 4,800km, mang nhiều tên khác nhau, bắt nguồn từ Tây Tạng:
có tên Dza-Chu có nghĩa“nguồn nước của đá,”tiếp
tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung
Hoa là Lancang Jiang“con sông xanh cuộn
sóng,” qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ,” xuống Cam Bốt lại mang một
tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn”
cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long “chín con rồng” với hai nhánh chính là Sông Tiền và Sông Hậu đổ ra
Biển Đông bằng chín cửa sông, và nay chỉ còn bảy.
Cũng
để thấy một con Sông Mekong hoang dã không còn nữa khi 6 con đập dòng chính khổng
lồ Vân Nam đã hoàn tất, và 12 con đập hạ lưu Lào và Cam Bốt đang lần lượt được triển
khai, cùng với những kế hoạch thuỷ lợi nguy hiểm là chuyển dòng lấy nước trên
suốt chiều dài con Sông Mekong. Hậu quả là sự suy thoái của toàn thể hệ sinh
thái lưu vực Sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long thì khô hạn, nhiễm mặn và
đang chết dần.
TIẾNG
NÓI BẢO VỆ MÔI SINH
Đức Dalai Lamakhông chỉ là vị lãnh đạo tinh thần của
dân Tây Tạng, ông còn là tiếng nói của "từ tâm" luôn luôn đấu tranh
cho nhân quyền và bảo vệ môi sinh cho toàn hành tinh này.
Với
quốc gia Tây Tạng, Đức Dalai Lamađã giành ưu
tiên cho bảo vệmôi sinh thay vì thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng.
"Lịch trình chính trị có thể hoãn
lại 5 - 10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâmtới biến đổi khí hậu
trên Cao nguyên Tây Tạng:khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm
nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể
chờ đợi."
Đức Dalai Lamađã nói với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy
Roemer như vậy trong một gặp gỡ ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8, 2009. [nguồn:
Wikileaks Cables, the Guardian 10 Aug. 2009]
Từ
trên đầu nguồn, những con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc phá huỷ một cách
toàn diện và có hệ thống: với khí thải từ các nhà máy gây hiệu ứng nhà kính khiến
khối băng tuyết đang tan rã, rồi nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation,
tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, tàn phá sinh cảnh, gây ô nhiễm
các nguồn nước; những con sông trên Cao nguyên Tây Tạng cũng đang bị Trung Quốc
xiềng xích bởi những con đập thuỷ điện và người dân Tây Tạng thì bị đuổi ra khỏi
vùng đất đang sinh sống của họ.
Hình 6: Hâm
Nóng Toàn Cầu trên Tây Tạng;
Nếu Tây Tạng
khô hạn, Châu Á chết
[nguồn: Meltdown
in Tibet, Michael Buckley, MacMillan 2014]
Hoa Lục xác nhận là sẽ xây các con đập lớn trên thượng nguồn Sông
Yarlung
Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông ấy chảy
sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của bao
nhiêu triệu cư dân của 3 quốc gia này.
Giới chức Hoa Lục cho biết họ sẽ còn xây thêm những con đập khác
giữa các quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những
con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three
Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Nguồn năng lượng mới này
tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí trên Biển
Đông. Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc (China
Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định: “Tây Tạng là nguồn dự trữ
thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện từ Tây Tạng
sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng của Trung Quốc”.
Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch
xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc -- thực ra
là trong lãnh thổ quốc gia Tây Tạng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại tới mối
quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so sánh:
“Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Tsangpo-
Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam
đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn Sông Lancang – Mekong”.
Hình 7:Cứu
Tây Tạng là cứu mạch sống Châu Á
[nguồn:
International Campaign for Tibet]
Cho
dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương nhưng Đức Dalai Lamacũng rất quan tâm tới những vấn đề
chung của nhân loại. Ông đề cập tới vấn đề môi sinh với một tầm nhìn xa và
trong mối tương quan toàn cầuvà luôn luôn muốn "giữ xanh" hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi
Sinh Thế Giới / World Environment Day [06.05.1986]:
“Hòa bình và sự sống trên trái đất
đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá
trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu
quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này...Chúng
ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng
ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là
phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ
truyền lại cho thế hệ mai sau."
NGÔ
THẾ VINH
Tham
khảo:
1/
Freedom in Exile; The Autobiography of The Dalai Lama. Tenzin Gyatso, Hodder
& Stoughton Ltd, London, 1990.
2/
Meltdown in Tibet:China's Reckless Destruction of Ecosystems from the Highlands
of Tibet to the Deltas of Asia. Michael Buckley. Palgrave MacMillan, New York,
2014
3/
Global Ecology and the Made in China Dams; Ngô Thế Vinh, Viet Ecology
Foundation 2010; http://vietecology.org/Article.aspx/Article/62
4/
The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in Turmoil. Ngô Thế Vinh,