TRẦN HOÀI THƯ
HÀNH TRÌNH TẠP CHÍ VĂN NGHỆ
TÓM TẮT
Tạp chí Văn Nghệ được xuất bản
dưới hình thức nguyệt san, chuyên về văn học nghệ thuật... Chủ
nhiệm Lý Hoàng Phong. Từ số 1 đến số 4: thư ký Ngọc Dũng. Từ số
5 trở đi, thêm vào Phí Ích Nghiễm coi về phần trị sự.
Tạp chí
gồm hai thời kỳ.
Từ số 1 (tháng 2-1961) đến số 24 (tháng 6 & 7-1963) được xem là
Bộ cũ.
Sau số 24, tạp chí
ngưng 4 tháng, và phát hành trở lại, gọi là Bộ mới. Bộ mới chỉ có 2 số. Số 1 Bộ mới tháng
11-1963, tức số 25, và Số 2 Bộ mới tháng 12-1963, tức
số 26. Sau đó tạp chí đóng cửa vĩnh viễn. Không rõ nguyên do.
Khác với hai tạp chí trước nó là Sáng
Tạo và Hiện Đại, ra đời và hiện diện trên văn đàn khi miền Nam vẫn
còn yên ổn, còn Văn Nghệ có mặt trong một thời kỳ nhiễu nhương, bất
ổn, dẫn đến sự cáo chung của nền
Đệ nhất Cộng Hòa với việc Tổng Thống Ngô Đình Diệm và em là Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị phe quân nhân giết ngày 1-11-1963. Trong khi đó mức độ xâm nhập người từ miền
Bắc càng lúc càng nhiều. Chiến sự không còn ở mức độ lẻ tẻ nhưng
có tính cách quy mô, trận địa chiến điển hình
là trận Ấp Bắc (2-1-1963).
Riêng về mặt văn
học, Văn Nghệ phải chứng kiến một cái tang rất lớn là việc văn hào
Nhất Linh tự tử (7-7-1963) để phản đối chính quyền đàn áp đối lập.
Văn Nghệ số
cuối cùng
VĂN NGHỆ VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP
Văn Nghệ ra đời mang
theo thông điệp và tiếng nói. Tiếng nói ấy là cảnh báo cái họa Cộng Sản (CS), là kêu gọi các nhà văn có kinh nghiệm
với CS đừng nên lơ là, kêu gọi giới trẻ đừng bắt chước “Chín Hổ” hay
“Lâm Thợ điện” đốt tuổi trẻ trong phòng trà, nhà nhảy, nổi loạn, cuồng loạn hư vô....
Trong Lời Mở Đầu, Văn Nghệ đưa ra mục đích và chủ trương
của tờ báo, với những chữ mang đầy khí thế của những
“chiến sĩ văn hóa”:
"...Trong những năm tháng lịch sử này, chúng tôi muốn tạp chí
sẽ là nơi phát động một phong
trào sáng tác phấn khởi và hào hùng, là nơi thúc đẩy một phong trào văn nghệ
tham dự vào đời sống, tham dự vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc, của thế
giới ngày nay, cho một tương lai sáng sủa hơn, cho một chân lý chân thật của tự
do và hòa bình..."
Ở đoạn cuối của Lời Mở Đầu, Văn Nghệ lại thêm một
lần lặp lại bốn chữ tranh đấu văn
nghệ:
"...Chúng tôi muốn nói rằng cuộc chiến đấu của
văn nghệ hôm nay cũng là cuộc tranh đấu của dân tộc để tồn tại và trưởng thành
với thế giới. Chúng tôi nghĩ thế và khởi đầu."
Hãy thử xem nội dung từng số, coi họ có thực hiện được
hoài bão và con đường họ theo đuổi hay không?
Không. Họ chỉ gióng
lên tiếng nói. Bằng những bài tham luận của Lý Hoàng Phong, Nguyễn
Thạch hay những bài viết của Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Trung
hay Cung Trầm Tưởng... Chúng lạc
loài giữa những tên tuổi mà nội dung chẳng liên quan gì đến chủ
trương của tạp chí.
Số 1 là số xuân Tân Sửu: Gồm bài vở của Kiêm Minh, Anh
Oanh, Ngọc Dũng, Tô Thùy Yên, Song Hồ, Viên Linh, Trụ Vũ, Trần Dạ Từ, Chế Vũ,
Vương Tân, Quách Thọai, Đoàn Ngọc Quỳnh, Nguyễn Sỹ Tế, Dương Nghiễm Mậu, Thao
Trường, Võ Phiến, và một truyện dịch của Ernest Hemingway.
Sau đó, chúng ta thấy thêm những tên tuổi người viết khác như: Doãn Quốc Sỹ, Đỗ Quí Toàn, Lê Huy Oanh, Nguyễn Trung, Nguyễn Hữu Đông, Trần Đức Uyển, Trần Thy Nhã Ca, Sao Trên Rừng, Cung Trầm Tưởng, Trường Duy, Trần Lê Nguyễn, Vĩnh Lộc, Thái Tuấn, Sơn Nam, Lê Xuyên, Hoàng Bảo Việt, Nguyễn Thạch, Phan Nguyên, Lam Giang, Đinh Nhật Tiến...
Sau đó, chúng ta thấy thêm những tên tuổi người viết khác như: Doãn Quốc Sỹ, Đỗ Quí Toàn, Lê Huy Oanh, Nguyễn Trung, Nguyễn Hữu Đông, Trần Đức Uyển, Trần Thy Nhã Ca, Sao Trên Rừng, Cung Trầm Tưởng, Trường Duy, Trần Lê Nguyễn, Vĩnh Lộc, Thái Tuấn, Sơn Nam, Lê Xuyên, Hoàng Bảo Việt, Nguyễn Thạch, Phan Nguyên, Lam Giang, Đinh Nhật Tiến...
Hầu hết nếu
không nói là đại đa số những người cộng tác đều ở SG và quen thuộc trên các tạp
chí văn nghệ như Sáng Tạo, Hiện Đại.
Người đọc nhìn vào chỉ hình dung ra những tuyển tập văn
chương không hơn không kém. Không thấy một trang diễn đàn văn học…
Nếu có chăng là ý kiến của 8 nhà văn về truyện
ngắn trên số 23.
Chính người chủ trương
cũng nhận ra điều này nên bắt đầu từ số 8, Văn Nghệ cải tiến, chú
tâm vào nội dung gần gũi với thực tại và thể hiện tính chiến đấu
trong mặt trận văn hóa hơn. Ví dụ số 18 trong bài Vùng nổi loạn hư vô và những phòng trà
đêm, nhà văn Dương Nghiễm Mậu hô hào:
Xã hội bất công ư? Hãy nổi dậy lập lại công bằng. Cai
trị áp chế hà hiếp ư? Hãy lật đổ. Văn hóa suy đồi ư? Hãy phá bỏ...
Nô lệ ư? Hãy dứt tan xiềng xích...
VĂN NGHỆ VÀ SÀI GÒN
Văn Nghệ ra
đời vào tháng 2 năm 1961 sau khi Hiện Đại hết nguồn tài trợ phải bị bức
tử. Nó được ra đời tại Saigon nhưng
không phải là một Saigon kiểu như của Sáng Tạo:
... Sài gòn thủ đô văn
hóa Việt Nam: Không phải là một danh từ, một câu nói suông nhạt. Không phải là
một ảnh hình trừu tượng. Không phải là một ảo tưởng mong manh còn nằm trong
ngày tới xa thẳm. Không phải là một ý niệm khát khao đợi chờ. Đã là một thực
thể được minh định: Văn Hóa Việt Nam thực hiện hôm nay và sẽ được kiện toàn
trong ngày tới đã có được một trung tâm xuất phát và sinh thành: Thủ đô Sài
Gòn.
(Mai Thảo: Sài Gòn Thủ
đô văn hóa VN, Sáng Tạo số 1)
Hay như Saigon
của Nguyên Sa trên tạp chí Hiện Đại tập 4 chủ đề Đêm Saigon phát hành vào
năm 1960:
Thủ đô của một
thành phố bao giờ cũng hiện ra trong tâm tưởng những con người ngang dọc trên
khắp các nẻo đường đất nước với hình ảnh của một viên ngọc quý. Nó chói sáng,
nó có một hào quang, một sức điện hấp dẫn ghê gớm. Người đi trong cuộc đời quay
cuồng trong không gian thành phố với những con đường lớn, bé dựa vào nhau, những
âm thanh, những sinh hoạt, đổi thay liên tục, cũng như người đứng nhìn thành
phố ấy từ đồng rộng, núi cao đều dành cho thành phố này những tình cảm
thân yêu, sâu mạnh...
hay một
Saigon của Hoàng Anh Tuấn với vũ trường và điệu nhạc tắt đèn :
Nhạc
đỏ, xanh rồi điệu nhạc tắt đèn
Hoài Phương, khóc bằng những dòng tóc rối
Rượu đã cạn, lòng chưa vơi giả dối
Màu áo vàng chưa cởi hết bơ vơ
Bước chân nghiêng rót xuống nhạc tình cờ
Một bóng tối ôm lấy cành ánh sáng
Ngực đã ấm nhưng tình còn lẻ bạn
Vòng tay ôm dư một quãng gần nhau
Hoài Phương ơi! Sao chẳng mối tình đầu
Cho điên loạn mang thêm màu êm dịu
Sao câu nói khàn khàn và nũng nịu
Vẫn vương vương nhiều quá vũ trường đêm
Hoài Phương, khóc bằng những dòng tóc rối
Rượu đã cạn, lòng chưa vơi giả dối
Màu áo vàng chưa cởi hết bơ vơ
Bước chân nghiêng rót xuống nhạc tình cờ
Một bóng tối ôm lấy cành ánh sáng
Ngực đã ấm nhưng tình còn lẻ bạn
Vòng tay ôm dư một quãng gần nhau
Hoài Phương ơi! Sao chẳng mối tình đầu
Cho điên loạn mang thêm màu êm dịu
Sao câu nói khàn khàn và nũng nịu
Vẫn vương vương nhiều quá vũ trường đêm
(Màu mắt trong đêm,
Hiện đại tập 4)
Nhưng với Văn
Nghệ, Saigon thì khác. Ta tìm thấy Saigon như thế này, trong một bài
viết của Dương Nghiễm Mậu vào cuối năm 1961:
Nếu có ai đến gặp tôi và hỏi: Sàigòn bây
giờ ra sao, thanh niên họ sống ra sao? Một câu hỏi chúng ta thường gặp nơi
những thư từ ở nước ngoài, hoặc tỉnh xa, có thể của một thanh niên đang chiến
đấu ở Cà Mau, Hậu Giang hay miền Trung xa xôi, tôi sẽ không biết trả lời làm
sao cho đúng được tinh thần câu hỏi. Bây giờ Sàigòn ra sao? Sàigòn đang kiến
thiết những building cao ngất, đang mở những con lộ mới, đang giải tỏa những
khu nhà ổ chuột thiếu vệ sinh, đang mở chiến dịch phòng bệnh uốn ván, dịch
hạch, đang phát khởi phong trào cứu giúp đồng bào Thượng lánh nạn Cộng sản,
đang thành lập khóm chiến lược, đang xây dinh Độc Lập - cũng như ở Sàigòn bao
nhiêu Snack Bar đang mở ra nhan nhản với những lời rao cần nữ chiêu đãi viên
trẻ đẹp biết ngoại ngữ, cùng những lời rao nhận con bỏ rơi ở bệnh viện Nhi Đồng,
ở giữa phố - Sàigòn một thành phố quốc tế, một thủ đô, một nơi đang là một xã
hội phức tạp - làm sao để có thể nói bây giờ Sàigòn ra sao? Thanh niên họ sống
ra sao? Câu hỏi này đi liền với Sàigòn lại càng khó nói - nhưng có điều tôi
muốn người hỏi hãy trở về Sàigòn - lúc đó tôi sẽ hướng dẫn người đó thăm Sàigòn
để biết đời sống thanh niên - mà việc đầu tiên ở Sàigòn ban đêm tôi sẽ dẫn
người đó tới thăm phòng trà: Đó thanh niên Sàigòn, một bằng chứng sống động.
Nhưng tôi chẳng quên thưa rằng: đây chỉ là một khía
cạnh, một số trong thành phần đời sống Sàigòn, trong lúc bấy giờ ở Sàigòn - còn
có những thanh niên trong các khóm chiến lược đang tuần phòng giữ an ninh, còn
có những thanh niên đang ngồi trong các lớp học đêm, đang chăm sóc đời sống gia
đình, đang làm việc thêm để đi học, để giúp đỡ đàn em,. .. cũng như còn có
những thanh niên đang lởn vởn đi bắt bò lạc ở bến tầu, xa lộ... đang đi tìm
động ở Ngã ba Chú Ía,
ngã năm Bình Hòa, Lăng Cha Cả... Nhưng tôi chưa muốn gặp họ - hãy tới phòng trà
để biết cái thành phần ăn chơi, cái đám thanh niên có chút học thức, có phương
tiện đang làm gì đời sống của họ... Người anh em của tôi, hãy tạm quên bao
nhiêu lời hô hào, bao nhiêu răn dạy chúng ta đã biết, hãy trút bỏ khuôn mặt nhà
thờ, hãy quên cộng sản đang bắn giết đồng bào chúng ta - quên hết, quên hết,
hãy đóng vai một kẻ lãng du vô tổ quốc, hãy mang theo cho mình như ảo ảnh một
tên lính lê dương đánh mướn - hay tự cho mình như một kẻ chinh phục tây phương
đi tìm thuộc địa vô vọng... hãy tự cho mình như một dân du mục... hãy tự cho
mình như một chính khách bảo hoàng của Châu Âu cổ kính đang thất quốc lưu vong với một
mối hận trong lòng... khi đó người anh em hãy tới thánh đường của những đệ tử
ăn chơi Sàigòn ...
(Dương Nghiễm Mậu: Vùng nổi loạn hư vô và
những phòng trà đêm, Văn Nghệ số 18 tháng 11-1961)
VĂN NGHỆ VỚI THỰC TẠI XÃ
HỘI
Văn Nghệ đã
cất lên tiếng nói. Tiếng nói khi thấy một xã hội bị thoái hóa và
kẻ thù là Cộng Sản đang lăm le rình rập chờ cơ hội là vồ chụp miền
Nam. Nhớ rằng thời gian ấy là năm 1961, 1962 và 1963.
Chúng ta
nhận ra tiếng nói ấy trong những bài viết của Lý Hoàng Phong, Nguyễn
Thạch, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Trung:
Một năm qua, mỗi lần ngồi trước bàn viết, chúng ta lại gặp thấy
trên mảnh giấy trắng cái thực tại đỏ cháy chúng ta đang sống, cái thực tại ám
ảnh, vướng mắc tâm não chúng ta như hồn quỉ lẩn khuất, cái thực tại âm ỉ, lở
lói như một vết thương không hàn gắn được...
(Lý Hoàng Phong: Đứng trước thực tại - Văn Nghệ 8 & 9 - Mùa xuân 1962)
(Lý Hoàng Phong: Đứng trước thực tại - Văn Nghệ 8 & 9 - Mùa xuân 1962)
......
Tại sao
qua gần hai chục năm chúng ta không có một tác phẩm tiêu biểu? Bảy năm trời nay
chúng ta làm gì: chúng ta xa lánh thực tại. Với nhiệt tâm của kẻ
chiến đấu, tôi không muốn bị Cộng-Sản nó đẩy xuống biển. Tôi đang tìm lấy đối
tượng, tôi phải làm lại sinh khí. Tôi phải góp sức vào cuộc chiến đấu này. Tôi
đã nhìn thấy những lỗi lầm dù còn lầm-nhưng tôi còn can đảm để nói mình lầm và tiếp tục cuộc
hành trình.
(Dương Nghiễm Mậu. Nhật Ký. Văn Nghệ số 8 tháng 9&10 năm 1961)
(Dương Nghiễm Mậu. Nhật Ký. Văn Nghệ số 8 tháng 9&10 năm 1961)
Đối với những nhà văn đi truớc, Văn Nghệ đặt vấn đề với họ:
"Phần lớn những tác phẩm đầu tay của
Mai Thảo, Doãn Quốc-Sỹ, Võ-Phiến… đều có
một thái độ rõ rệt đối với con người và chế độ cộng sản. Ngoài ra, Vũ
Khắc-Khoan, Mặc Đỗ, Nguyễn-Sỹ -Tế, Thanh-Tâm-Tuyền, Quách-Thoại v.v... đều đã
nói lên tiếng nói chống cộng của họ. Nhưng cách đây mấy năm, tiếng nói ấy có vẻ
lạc lõng giữa một xã hội thái bình mà cộng sản là một kẻ vắng mặt không ai nhìn
thấy."
(Lý
Hoàng Phong - Đứng trước thực tại
số 8&9)
Với giới
trẻ, Văn Nghệ kêu gọi hãy nhập cuộc, sau cái chết của “Chín Hổ”:
Sự tích “Chín Hổ” đã
chấm dứt trong cái lãng quên lạnh lùng của cuộc sống. Nhưng cái ở
lại muôn đời trên xa lộ Saigon - Biên Hòa là bầu trời miền Nam này khi nắng khi mưa, khi xanh
cao khi mù thấp.
Ở lại
cùng với niềm hy vọng của những người thương yêu thực sự tuổi trẻ. Hy vọng những Chín Hổ tương lai sẽ ngừng tự sát bằng những xuẩn động, mang máu, mồ hôi, nước mắt của mình, thôi nhuộm đỏ những phiến đá đỏ cằn cỗi ở vệ xa lộ, mà tưới vào
huyết mạch của xứ sở, сàу thêm những ruộng lúa, trồng thêm những đồn điền cao su, những cao nguyên cam, khai thêm những rừng hoang, dựng thêm những đập Đa nhim, khơi thêm những kinh đào... Hy vọng xa lộ Sàigòn - Biên Hòa thôi
là tử lộ của tuổi trẻ để trở thành huyết lộ của những đoàn xe tấp nập chở hoa màu lục tỉnh,
cao nguyên vào thủ đô.
(Cung Trầm Tưởng: ernest hemingway trong đấu trường và chín hổ trên xa lộ saigon-biên hòa, Văn Nghệ số 8)
...Hỡi những anh em của Chín Hổ, Lâm Thợ Điện, hỡi những
đệ tử của phòng trà ban đêm, hỡi những kẻ lưu vong ngay trên quê hương
xứ sở có biết chăng anh em đang nổi loạn trong hư vô nơi phần đất nhược
tiểu khốn khó của Á Châu này? Đó là bà mẹ Việt Nam khốn khổ trong
chiến tranh chia cắt thiên tai của thời hiện tại...
(Dương Nghiễm
Mậu: Vùng nổi loạn hư vô và những phòng trà đêm, Văn nghệ 18 tháng
11-1961)
Rõ ràng, chủ
trương và quan niệm về văn chương của Văn Nghệ khác với Sáng Tạo hay Hiện
Đại. Văn Nghệ đã mở cánh cửa để nhìn sự thật, sự giả, và sự cần thiết của một cuộc
cách mạng văn học.
Cách mạng ở
đây được Lý Hoàng Phong - chủ nhiệm kiêm chủ trương - giải thích rõ trên số 8
tháng 10 năm 1961:
“Cách mạng không phải chỉ là sự thay đổi một chế độ, Cách mạng là sự đổi mới tư tưởng, đổi mới xã hội, ..
(...) Cách mạng và văn học vì thế thường đi theo nhau. Vì văn học cũng như cách mạng đều muốn đổi mới tư tưởng, đổi mới xã hội...”
“Chúng ta không đoạn tuyệt với cái cũ để theo ông thầy Tây Phương
như ngày trước. Chúng ta đòi xét lại những giá trị cũ. Chúng ta tìm lấy trong
cái cũ những giá trị mới, chúng ta đổi mới cái cũ. Văn hóa cũ, đạo đức cũ,
phong tục cũ có những giá trị bất biến và cần được đổi mới để tồn tại.”
Riêng về việc
du nhập tư tưởng Tây Phương, ông nhận định như sau:
“Tư tưởng triết học, văn hóa, chính
trị, xã hội của họ, chúng ta học hỏi với tinh thần phê phán độc lập... Ngày nay
chúng ta không còn thói quen xem Tây Phương là ánh sáng tuyệt đối của văn minh
và Đông phương là bóng tối mịt mù của thoái hóa...”
Văn Nghệ có
mặt trong ba năm, với 26 số. Mặc dù nó không thực hiện được chủ trương mà tạp
chí luôn luôn hô hào là tranh đấu cho nghệ thuật mới hay tạo nên một diễn
đàn văn học như tờ báo đã vạch trên số 1. Mặc dù tiếng nói của nó không được
lắng nghe, nhưng ít ra nó cũng thể hiện được trách nhiệm và lương tâm của người
cầm bút. Nó mang văn chương nghệ thuật lại gần với xã hội hơn, thay vì
nó quay mặt lại xã hội như Sáng Tạo hay Hiện Đại đã làm.
VĂN NGHỆ VÀ KHUYẾT ĐIỂM
Theo tôi, Văn Nghệ
có hai khuyết điểm sau đây, khiến tờ báo bị cô lập bởi lớp trẻ
chúng tôi.
Thứ nhất
là Văn Nghệ không chịu tìm tòi khám
phá tài năng. Không mở cửa rộng đón nhận những ngọn gió lạ. Chỉ khăng khăng chừng ấy tên
tuổi. Để người đọc thấy nhàm chán.
Nếu bảo là không có tài năng mới thì tại sao các tạp chí như Văn, Khởi Hành, Bách Khoa, Vấn Đề, Trình Bày, Thời Tập, Ý Thức lại tấp nập những người viết mới?
Nếu bảo là không có tài năng mới thì tại sao các tạp chí như Văn, Khởi Hành, Bách Khoa, Vấn Đề, Trình Bày, Thời Tập, Ý Thức lại tấp nập những người viết mới?
Thứ hai, Văn Nghệ không
có tế nhị trong việc cư xử giao tế với người cộng tác hay những
người muốn cộng tác. Ví dụ nhà văn Song Linh, dù có bài văn trên Văn Nghệ
số 2, và là một biên tập viên quen thuộc của Hiện Đại vẫn được xếp bên cạnh những tên tuổi vô danh trong hộp thư độc giả nhận được. Trong khi những tên tuổi khác, mà nhà
thơ Viên Linh cho là chẳng tài năng gì như Vương Tân, Ngọc Dũng thì
được dành chỗ trang trọng nhất. (Xin đọc phần sau).
Làm sao họ có thể
gởi bài cộng tác nếu họ nhận được câu trả lời phũ phàng như thế
này: Hy
vọng bạn còn nhiều cố gắng. (Số Xuân - trả lời nhà thơ Sương Biên Thùy).
hay: Gởi thêm cho sáng tác mới
nếu có . (Văn Nghệ
số 5
- trả lời Hoang
Vu, bút danh của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng)
Trả lời kiểu ấy ai lại không tự ái. Ai lại chịu cộng
tác chứ?
Có lẽ rút từ bài học của Văn Nghệ, nên sau này, nhà văn Trần Phong Giao khi làm thư ký tạp chí Văn, đã nhắm vào độc giả miền Trung và những cây bút trẻ ngoài vòng đai Saigon. Ngay cả trả lời thư tín, ông cũng rất cẩn thận. Những người viết quen thuộc ít khi thấy để tên chung với người viết chưa quen mà để vào một cột riêng biệt. Luôn luôn thực hiện tuyển tập những cây bút trẻ. Nhuận bút được trả đồng đều, sòng phẳng, không phải chỉ có những tác giả ở SG mới được ưu ái.
Một ví dụ thứ hai là tạp chí Khởi Hành do nhà
thơ Viên Linh chăm sóc. Ông đã biết cách biến KH là một diễn đàn chung
tập trung những khuynh hướng dị biệt. Người đọc thời ấy không thể
nào quên những trang báo đầy ý kiến của độc giả từ khắp nơi gởi về
đóng góp, sôi nổi, đông đảo... Lý do là ông biết sức mạnh đến từ đâu, chỗ nào.
Không phải là SG. Không phải là những cây bút thời danh nằm ở ngay SG
mà ở những người trẻ ngoài SG.
Bởi vậy, tạp chí Văn, Khởi Hành được lưu hành
rộng rãi, được giới trẻ yêu mến. Trái lại số lượng phát hành của
Văn Nghệ thì giới hạn, thỉnh thoảng lại trưng cầu ý kiến bạn đọc hay kêu gọi sự
ủng hộ của bạn đọc.
THƠ VĂN NGHỆ
Giống như Sáng Tạo,
loại thơ tự do tràn ngập suốt 26 số báo Văn Nghệ. Ít thấy loại thơ
vần. Trừ vài bài lục bát của Viên Linh hay một hai tác giả nào đó
lạc lõng. Người đọc phải nổ cả đầu về loại thơ bí hiểm, cao siêu,
chẳng mang chút gì lời hịch hay “tính chiến đấu” mà người chủ trương
đã hô hào trong Lời Mở đầu số 1:
"...Trong những năm tháng lịch sử này, chúng tôi muốn tạp chí sẽ là
nơi phát động một
phong trào sáng tác phấn khởi và hào hùng, là nơi thúc đẩy một phong trào văn
nghệ tham dự vào đời sống, tham dự vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc, của
thế giới ngày nay, cho một tương lai sáng sủa hơn, cho một chân lý chân thật
của tự do và hòa bình..."
Ví dụ những đoạn thơ
sau đây, chẳng mang phấn khởi hào hùng khí phách chút nào:
Màu
xanh đỏ của em chỉ làm tôi nổi giận. Tôi phùng mang tai tôi thở phì
phò. Thôi hãy kêu hãy hót. Thôi nghe mình xài đỡ giác quan.
(Viên Linh: tháng 5 ở
Saigon, Văn Nghệ số 15)
....
khẽ
cho dĩ vãng
sâu trong rừng hoang
với tuổi xanh hờn dỗi
với thân này ngã xuống
lá khô bồi đất đen
sâu trong rừng hoang
với tuổi xanh hờn dỗi
với thân này ngã xuống
lá khô bồi đất đen
(Trần Thy Nhã Ca - bài đơn
ca. Văn Nghệ số 7 tháng 8-1961)
....
chết
đi em, chết đi em
Ở đấy là thiên đường mà con sáo già không hát lên, ngôi tượng trinh bạch và tội lỗi dẫn vào bằng lũ côn trùng vô hình, em sẽ chết
Chết đi em, chết đi em
Vì đó, không ai cãi cho em, đi thẳng vào và em sống trọn một người khi vinh quang ào đến ngợp tràn. Em sẽ chết hay không, sần sượng và câm trơ hơn núi, chúng ta và sự lỡ tay đều làm bằng cẩm thạch cho riêng mình.
Ở đấy là thiên đường mà con sáo già không hát lên, ngôi tượng trinh bạch và tội lỗi dẫn vào bằng lũ côn trùng vô hình, em sẽ chết
Chết đi em, chết đi em
Vì đó, không ai cãi cho em, đi thẳng vào và em sống trọn một người khi vinh quang ào đến ngợp tràn. Em sẽ chết hay không, sần sượng và câm trơ hơn núi, chúng ta và sự lỡ tay đều làm bằng cẩm thạch cho riêng mình.
(Nguyễn Nghiệp Nhượng - Cái ghế đá của gió - Văn Nghệ số 7 tháng 8-1961)
....
Cũng
kiếp ngựa nhưng là ngựa rằn nên không thể cưỡi, tôi mở con đường máu cho tâm
khảm thoát thân.
Khỏi bề mặt của cuộc đời bình lặng
Tôi trang bị hoài nghi mà thám hiểm tương lai, ngày một lạc sâu vào hoang địa - nỗi chán chường cứ trải rộng ra, và vòm trời như nắp áo quan bằng cẩm thạch
Khỏi bề mặt của cuộc đời bình lặng
Tôi trang bị hoài nghi mà thám hiểm tương lai, ngày một lạc sâu vào hoang địa - nỗi chán chường cứ trải rộng ra, và vòm trời như nắp áo quan bằng cẩm thạch
(Tô
Thùy Yên - Lễ tấn phong tình yêu. Văn Nghệ số 8 tháng 9&10-1961)
....
Đêm
bắt đầu khi bóng người đàn bà
với hai cục máu nhà con
xung quanh thành phố chết
với hai cục máu nhà con
xung quanh thành phố chết
(nơi chúng ta đi qua - Văn Nghệ số 15 tháng 5-1962)
Mới đây, trên báo Người
Việt, khi đề cập tạp chí Văn Nghệ, nhà thơ Viên Linh đã đưa ra trường
hợp của hai người có thơ đăng nhiều nhất là Vương Tân và Ngọc Dũng
để giải thích tại sao Văn Nghệ ít được nhắc nhở, và lý do tại sao
hai nhà thơ trên không được truyền tụng:
(...)
Ở Văn Nghệ số Xuân 1961, thơ Ngọc Dũng cũng in ở đầu số báo như số trên (ba bài
ở trang 10), thơ Vương Tân kế tiếp ở trang 16, thơ ông này chỉ chấm hết ở trang
29, nghĩa là dài tới 14 trang thơ của ông thôi, trên đầu lại có tranh minh họa
riêng của Ngọc Dũng. Có vẻ hai nhà thơ này là thi sĩ nòng cốt của tờ báo, tất
phải hay. Ta hãy đọc nguyên một bài của Ngọc Dũng: Bài “Vết Chém”:
Như
đợt thủy triều rớt xuống / Bỏ lại cồn cát không / Như nước biển đầy dâng vĩnh
viễn / Mà cánh tay vòng ôm suốt thân.” (trang 10). Và thơ của thi sĩ nòng cốt
thứ hai, dài tới 14 trang trong số Xuân chỉ dày 103 trang như đã nói: “Giáo
Ðầu: lịch sử những hoang mang / với mối sầu chia cắt / loài chim di trốn rét /
vỗ đôi cánh mùa xuân / thành phố ngọn đèn vàng / và mắt người ngái ngủ / hàng
rào dây kẽm gai / với con tầu phạm xá”
Bài
thơ chỉ có thế, không lên hoa chữ nào và không dấu chấm dấu phẩy. Vài chục năm
sau thơ hai vị đó không thấy ai truyền tụng, và người ta biết đến Ngọc Dũng nhờ
ông là họa sĩ, chứ không phải vì ông là nhà thơ. Ðiều nòng cốt để tìm hiểu: họa
sĩ Ngọc Dũng chính là thư ký tòa soạn của tờ Văn Nghệ.
(Viên
Linh: Văn Nghệ, trong và ngoài tòa soạn, nguồn: nguoivietonline)
..
Quí bạn nào muốn đọc toàn bài viết này cứ google search: "Văn Nghệ, trong và ngoài tòa soạn" là có thể đọc ngay.
Quí bạn nào muốn đọc toàn bài viết này cứ google search: "Văn Nghệ, trong và ngoài tòa soạn" là có thể đọc ngay.
Thật sự, không phải
riêng Vương Tân và Ngọc Dũng là có thơ đăng nhiều mà có cả nhà thơ
Viên Linh. Suốt 26 số, thơ tự do của VL tràn ngập. Người đọc cứ nghĩ
ông là cột trụ của Văn Nghệ.
Khi ông phê bình thơ
Ngọc Dũng “không lên hoa chữ nào” nhưng thật sự thơ ông cũng thế. Ví dụ
bài thơ “ảo tưởng của thằng nam nghèo khổ” đăng trên Văn Nghệ số 5,
dài đến 3 trang. Chữ hoa, dấu chấm, dấu phẩy cũng rất hiếm thấy!
Riêng những bài lục
bát của ông đăng trên Văn Nghệ (số 4 tháng 5-1961) thì hoàn toàn chẳng
hoa hòe, chấm phết gì ráo. Nhưng theo tôi, đó là những bài thơ hay
nhất tôi được đọc trên suốt 26 số Văn Nghệ. Xin được đăng lại bản gốc
để chứng tỏ là hoa hòe, chấm phết không phải là yếu tố quan trọng ở
việc phê bình thi ca:
Một bài thơ hay khác
chúng tôi xin được chọn đăng ra đây. Đó là bài ĐI
THĂM MỘT NGƯỜI BẠN SẮP ĐẺ Ở DI LINH của Nguyễn Đức Sơn (Văn Nghệ
số 23 tháng 4&5 năm 1963). Sau đó bài thơ này đăng lại trên VĂN
dưới một tựa khác: ĐÊM THĂM BẠN SẮP ĐẺ Ở DI LINH! Và một vài chữ thay đổi. Ví dụ ở Văn
Nghệ: My tormented heart thì trên
Văn đổi thành Oh my tormented heart...
Trần Hoài Thư
Tháng 12.2015