Hầu hết truyện ngắn của Maupassant đều được đăng lần đầu
trên các nhật báo. Ông cộng tác với nhiều báo và sử dụng nhiều bút danh khác
nhau. Trong vòng một năm, Ông viết ba truyện cùng chung nhan đề " Lời thú tội
" ( La Confession ). Truyện thứ nhất, đăng trên tờ Le Gaulois ngày
21/10/1883, là lời
thú tội của
người chị
đã đầu độc người sắp cưới em
gái
mình
chỉ vì chị
cũng yêu người ấy. Truyện thứ hai đăng trên tờ
Gil Blas, ngày 12/8/1884, là lời thú tội của người chồng nghi vợ ngoại tình nên
đã giết oan một mạng người. Truyện dưới đây đăng trên tờ le Figaro ngày 10/11/1884, là lời thú tội của một người cha đã giết
con trai của mình. Những tình tiết bất ngờ xuất hiện theo diễn biến tâm lý của
nhân vật khiến người đọc hồi hộp theo dõi câu chuyện cho đến hồi kết.
Tất cả người
dân hạt Véziers-le- Réthel đã đi theo đoàn đưa tang ông Badon- Leremincé, và những lời cuối cùng trong điếu văn
của đại diện địa phương vẫn còn in đậm trong ký ức mọi người: "Ít nhất, ông
ấy là một người "lương thiện!"
Vâng, ông là
người lương thiệnqua tất cả những hành vi có thể nhận xét được trong cuộc đời,
trong lời nói, trong ứng xử, trong thái độ, trong cách ăn mặc, đi đứng, trong
kiểu râu, loại mũ của ông nữa. Chưa bao giờ ông nói lời nào mà không có ý nêu gương,
chưa bao giờ giúp đỡ ai mà không khuyên nhủ, chưa bao giờ bắt tay ai mà không
chúc phúc.
Ông để lại
hai người con: một trai một gái, con trai ông là uỷ viên hội đồng tỉnh, con gái
kết hôn với công chứng viên Poirel de la Voulte, thuộc tầng lớp thượng lưu ở Véziers.
Cả hai chưa nguôi nỗi buồn mất cha, vì họ yêu cha thực lòng.
Tang lễ vừa
xong, họ trở về nhà người vừa mất, con trai, con gái và con rể, cả ba tự giam mình
trong phòng rồi mở chúc thư, chính họ mới được mở niêm phong và chỉ mở sau khi
quan tài đã nằm sâu trong lòng đất. Một ghi chú trên bao thư đã nói rõ di nguyện
đó.
Ông Poirel
de la Voulte xé bao thư, theo tư cách một công chứng viên đã quen với công việc
đó, rồi, chỉnh lại cặp kính, ông đọc bằng cái giọng buồn tẻ vốn thường đọc các
chi tiết những khế ước.
- Các con của
cha, các con yêu quý của cha, cha sẽ không thể an giấc ngàn thu nếu như từ dưới
mộ sâu cha không gửi đến các con một lời thú tội, thú nhận về một tội ác khiến
cha đã bị ăn năn dày vò suốt đời. Phải, cha đã phạm một tội ác, một tội ác tày
trời, kinh tởm.
Hồi ấy,
cha mới hai mươi sáu tuổi, bắt đầu làm nghề luật sư ở Paris, sống cuộc sống của
thanh niên tỉnh lẻ lạc lõng nơi chốn thị thành, không người quen, không bạn bè,
không họ hàng.
Cha có một
tình nhân. Biết bao nhiêu người nghe nói " tình nhân " là phẫn nộ,
tuy nhiên cũng có những người không chịu
nổi cuộc sống cô đơn. Cha là người trong số đó. Sự cô đơn khiến lòng cha tràn
ngập một nỗi lo sợ khủng khiếp, sự cô đơn trong căn phòng, bên lò sưởi, khi đêm
về.
Lúc này cha
cảm thấy dường như cha chỉ có một thân một mình, trơ trọi đớn đau trên thế gian
này, lại bị bủa vây bởi những hiểm hoạ mơ hồ, những điều khủng khiếp không biết
rõ, và bức tường ngăn cách cha với người hàng xóm chưa hề biết mặt, khiến cho
cha với anh ta xa nhau một khoảng cách vời vợi, khác nào những vì sao cha nhìn
thấy qua cửa sổ. Một thứ như cơn sốt xâm chiếm lấy cha, cơn sốt bồn chồn và lo
sợ, và sự yên lặng của các bức tường khiến cha hãi hùng. Ôi, cái yên lặng của
gian phòng ta sống đơn độc mới sâu lắng và sầu thảm làm sao! Chẳng phải chỉ là sự
yên lặng bao quanh thân xác, mà còn là sự yên lặng bao quanh tâm hồn, và khi bỗng
có tiếng đồ đạc kêu răng rắc, ta run rẩy cả cõi lòng, bởi trong căn phòng sầu
muộn này, nào ai có chờ mong một tiếng động nào đâu.
Biết bao
nhiêu lần, căng thẳng, sợ hãi vì sự lặng lẽ im lìm đó, cha đã cất tiếng, thốt lên
những lời rời rạc, không ý nghĩa, cốt chỉ để có âm thanh thôi. Giọng cha lúc ấy
nghe ra lạ lùng quá đỗi khiến cha cũng thấy sợ.
Có điều gì khủng
khiếp hơn là một mình cất tiếng nói trong căn phòng trống hoắc? Giọng phát ra
chừng như giọng của ai khác, xa lạ, vu vơ, không nhằm vào ai, đi vào hư không,
chẳng có đôi tai nào lắng nghe, bởi vì ta biết lời nào sẽ được thốt ra trước
khi chúng tan vào cảnh tịch liêu của căn phòng. Và khi những lời ấy vang lên sầu
thảm trong thinh lặng, dường như chúng chỉ như là một tiếng vọng, tiếng vọng lạ
kỳ của những lời thì thầm trong ý nghĩ một người.
Cha có nhân
tình, một cô gái trẻ cũng như nhiều cô gái khác, sống ở Paris bằng cái nghề không
đủ nuôi sống mình. Cô ấy dịu dàng, nhân hậu, giản dị, có bố mẹ sống ở Poissy, thỉnh
thoảng cô về đấy sống với họ vài ngày.
Trong suốt
một năm, cha sống yên ổn với cô ấy, và có ý sẽ rời bỏ cô khi nào tìm được người mà cha yêu thương để có thể cưới
làm vợ. Cha sẽ chu cấp chút ít cho cô gái, bởi trong xã hội chúng ta, ai cũng
thừa nhận là yêu thương phụ nữ phải trả công,
bằng tiền nếu cô ấy nghèo, bằng quà cáp nếu cô ta giàu.
Nhưng bỗng
một ngày, cô ấy báo cha biết là cô có thai. Cha nghe mà rụng rời và trong thoáng
chốc nhận ra là cuộc đời cha sẽ bi thảm rồi. Cha thấy rõ gông xiềng mà cha sẽ đeo
cho đến chết, ở mọi nơi, trong gia đình tương lai của cha, lúc cha về già, mãi
mãi: gông xiềng của một người đàn bà trói buộc đời cha bằng đứa con, gông xiềng
của đứa bé mà cha phải nuôi nấng, trông nom, che chở, nhưng phải làm như không
biết nó, phải che giấu nó với mọi người.
Tâm trí cha
xáo động bởi cái tin đó, và một mong muốn mơ hồ, cha không bày tỏ được, mà chỉ cảm
thấy nó ở trong tim cha, sẵn sàng bộc lộ ra, chẳng khác nào những người núp sau
rèm cửa chờ nghe lệnh lộ mặt ra, một mong muốn tội lỗi rình rập tận nơi sâu thẳm
của tâm trí cha! Có thể nào một tai nạn xảy ra nhỉ? Phải rồi, cũng đã có nhiều
sinh linh bé nhỏ đã chết trước khi sinh ra đó thôi!
Ôi! Cha không
muốn người tình của cha chết. Cô gái tội nghiệp, cha yêu cô ấy lắm! Nhưng có lẽ,
cha mong đứa bé sẽ chết trước khi cha thấy mặt nó.
Thằng bé được
sinh ra. Vậy là cha có một gia đình trong căn hộ nhỏ của trai độc thân, một gia
đình giả tạo có trẻ con, thật là chuyện khủng khiếp. Nó cũng giống mọi đứa trẻ khác.
Cha chẳng thương nó chút nào. Các con biết đó, tình yêu của những ông bố chỉ về
sau mới biểu lộ. Người bố không có sự dịu
dàng bản năng và mãnh liệt của người mẹ, tình cảm yêu thương của họ cần được đánh
thức dần dần, tinh thần của họ cần được nối kết bằng những sợi dây hình thành mỗi
ngày giữa những người cùng sống chung với
nhau.
Một năm nữa
trôi qua: bây giờ cha thường tránh về nhà, nơi chật chội bừa bãi áo quần, tã lót,
những đôi vớ cỡ găng tay, cả ngàn thứ linh tinh ngổn ngang trên đồ đạc, nơi tay
dựa ghế bành, ở khắp mọi nơi. Cha bỏ đi chủ yếu là để khỏi nghe nó kêu thét lên
vì lúc nào nó cũng kêu thét lên được, khi thay quần áo, khi tắm rửa, khi người
ta đụng vào, khi được dỗ ngủ, khi được bế dậy, nó kêu thét không dứt.
Rồi cha cũng
có những mối quen biết khác, và trong một buổi tiệc cha đãgặp người phụ nữ sau
này là mẹ các con. Cha yêu nàng và mong muốn được cưới nàng. Cha đã tỏ tình, đã
xin gia đình nàng cho cưới và đã được chấp nhận.
Lúc này cha
mới thấy mình đang ở tình thế tiến thoái lưỡng nan. Hoặc là đang có con, cưới cô
gái mà cha yêu thương này, hoặc là nói ra sự thật và từ bỏ nàng, từ bỏ hạnh phúc,
tương lai, từ bỏ tất cả, vì cha mẹ nàng, vốn khắt khe và thận trọng, sẽ không
chấp thuận cho cha cưới nàng nếu họ biết chuyện.
Cha đã trải
qua một tháng khủng khiếp đầy lo sợ và dày vò tinh thần, một tháng bị ám ảnh bởi
những ý nghĩ kinh người, và cha cảm thấy dấy lên sự căm ghét đối với con trai của
cha, cái khối thịt nhỏ bé sống động và hay kêu thét đó, chính nó đã chặn đường,
cản lối cha, buộc cha phải sống một cuộc đời không mong đợi, không còn hy vọng
mơ hồ khiến cho tuổi trẻ tươi đẹp ra.
Rồi ngày nọ,
mẹ cô người tình bị bệnh và cha ở một mình với đứa bé. Lúc này vào tháng mười
hai. Trời lạnh khủng khiếp. Một đêm thật kinh hoàng! Người tình của cha vừa đi
khỏi, cha ăn tối một mình trong căn phòng nhỏ và bước khẽ vào phòng thằng bé đang
ngủ.
Cha ngồi xuống
chiếc ghế bành trước lò sưởi. Gió thổi làm những cánh cửa kêu lách cách, một cơn
gió khô, lạnh buốt, xuyên qua khung cửa sổ, cha nhìn thấy những vì sao đang toả
ra thứ ánh sáng sắc lạnh như thường thấy những đêm băng giá.
Rồi cái ý nghĩ
đã từng ám ảnh cha từ một tháng nay lại thấm vào đầu cha. Ngay khi cha ngồi im,
nó trở lại, nhập vào người cha, gặm nhấm cha. Nó gặm nhấm cha như những ý niệm đã
định hình, như những ung nhọt gặm nhấm da thịt. Cha thấy như nó cứ ở đó, trong đầu
cha, trong tim cha, trong toàn thân thể cha, và nó nuốt chửng cha như một con
thú dữ.
Cha muốn xua
đuổi nó, đẩy lùi nó, muốn mở tâm trí mình ra với những thứ khác, những hy vọng
mới, như người ta mở cửa sổ đón gió mát ban mai để xua đi không khí ô nhiễm đêm khuya. Nhưng cha không
thể nào xua nó ra khỏi đầu óc dù chỉ trong một giây. Cha không biết giải thích
sự dày vò này ra sao. Nó gặm nhấm tâm hồn cha, cha cảm được từng vết răng của nó
với sự đau đớn ghê người, cả thể xác lẫn tinh thần.
Đời cha thế
là tàn rồi! Làm sao thoát khỏi tình thế này? Làm sao có thể rút lui, làm sao thú
tội?
Và cha đã yêu
người phụ nữ sau này là mẹ các con bằng một niềm đam mê dữ dội và càng tệ hại hơn
bởi điều chướng ngại không thể vượt qua này.
Một cơn giận
khủng khiếp đang bừng dậy, bóp nghẹt cổ họng cha, cơn giận dần dần gần sự điên loạn! Đúng vậy, tối hôm đó
cha đã điên loạn.
Đứa bé đang
ngủ. Cha đứng nhìn nó ngủ. Chính nó, cái đồ trẻ ranh này, cái đồ quái quỷ này,
cái đồ không ra gì này, đã buộc cha lâm vào cảnh bất hạnh không thoát được.
Nó đang ngủ,
miệng há ra, người bọc trong lớp chăn mền, nằm trong nôi, cạnh giường của cha,
còn cha thì không sao chợp mắt được!
Làm sao cha
đã thực hiện được điều cha đã làm? Sao cha biết được? Sức lực nào đã thúc đẩy
cha? Thế lực xấu xa nào đã chế ngự cha? Chao ôi! Sự cám dỗ gây tội ác đã đến với
cha mà cha nào thấy được báo trước. Cha chỉ còn nhớ là tim cha đập dữ dội. Tim đập
mạnh đến nỗi cha nghe thấy được, như ta nghe tiếng búa đập sau bức vách. Cha chỉ
nhớ có thế. Tim cha đập loạn xạ.
Trong đầu
cha là một sự hỗn loạn lạ kỳ, một sự xáo động, một sự lạc hướng khỏi lý trí, khỏi
bình tâm. Cha đang ở vào một trong những giờ phút hoang mang đầy ảo giác, khi
con người không còn ý thức về hành động cũng không điều khiển được ý muốn của mình.
Cha nhẹ nhàng
kéo mấy cái mền che cơ thể đứa bé ra, ném chúng phía dưới nôi, và cha thấy nó trần
truồng hoàn toàn. Nó vẫn không thức giấc. Rồi cha bỏ đi ra phía cửa sổ, thật khẽ,
thật khẽ, và mở cửa sổ ra.
Một làn khí
lạnh len vào phòng như tên sát thủ, lạnh đến nỗi cha phải lùi lại, hai ngọn nến
chập chờn. Và cha vẫn đứng cạnh cửa sổ, không dám quay lại như thể để khỏi nhìn
thấy những gì xảy ra sau lưng, nhưng cha vẫn cảm thấy cái khí lạnh chết chóc đó
không ngừng lướt qua trán, qua má, qua hai bàn tay cha. Cha đứng vậy một lúc lâu.
Cha không
nghĩ gì, không suy tư việc gì. Bỗng nhiên có một tiếng ho nhỏ khiến cha sợ hãi
rùng mình từ chân đến đầu, cơn rùng mình mà giờ đây cha vẫn còn cảm thấy đến tận
chân tóc. Và bằng một động tác hoảng loạn, cha đột ngột đóng hai cánh cửa sổ lại
và quay lui, chạy đến bên nôi.
Đứa bé vẫn
ngủ, miệng há ra, hoàn toàn trần truồng. Cha sờ hai chân nó, chân lạnh ngắt,
cha đắp chân lại.
Trái tim
cha bỗng dịu lại, đau đớn, ngập tràn lòng trắc ẩn, dịu dàng, yêu thương dành
cho sinh linh ngây thơ tội nghiệp mà cha đã muốn giết đi. Cha hôn trên mái tóc
mịn màng của nó thật lâu, rồi cha đến ngồi trước lò sưởi.
Cha ngẫm
nghĩ với sự kinh ngạc và khiếp sợ về những gì cha vừa làm, tự hỏi những cơn bão
lòng này từ đâu tới, khiến con người mất hết khái niệm về sự việc, mất hết khả năng
điều khiển bản thân, để hành động trong một cơn say điên cuồng, không biết mình
đang làm gì, không biết mình đang đi đâu, như con thuyền trong bão tố.
Đứa bé còn
ho lần nữa, và cha cảm thấy nát cả cõi lòng. Lẽ nào nó chết! Ôi! Chúa ôi! Chúa ôi!
Cha sẽ ra sao đây?
Cha đứng dậy
đến bên đứa bé, cầm ngọn nến trong tay, cha cúi xuống nhìn nó, thấy nó vẫn thở ổn cha cố trấn an, khi nó ho
lần thứ ba. Và cha cảm thấy choáng váng, cha phải lùi ra sau, như khi xáo động
nhìn một cảnh tượng hãi hùng nào đó, đến mức đánh rơi cả ngọn nến.
Nhặt nến lên
đứng dậy, cha nhận ra là thái dương ướt đẫm mồ hôi, thứ mồ hôi vừa nóng hổi vừa
lạnh giá, toát ra do những khắc khoải của tâm hồn, chừng như từ một nỗi đau
tinh thần, nỗi dày vò không gọi tên được, quả thực là vừa nóng rực như lửa, lại
vừa lạnh như băng, nó thoát ra từ xương từ da của sọ não.
Và từ lúc đó
cho đến rạng sáng, cha cứ cúi xuống con trai, yên tâm khi đứa bé yên lặng được
lâu và lòng nát tan khi một cơn ho yếu ớt thoát ra khỏi miệng nó.
Đứa bé tỉnh
dậy, mắt đỏ, họng nghẽn, có vẻ đau đớn.
Khi người làm
phòng đến, cha bảo bà mời bác sĩ ngay. Một tiếng sau bác sĩ đến khám cho đứa nhỏ
rồi ông hỏi:
- Nó không
bị nhiễm lạnh chứ?
Cha bắt đầu
run, như kiểu người già yếu, cha ấp úng:
- À không,
tôi không nghĩ vậy.
Rồi cha hỏi:
- Chuyện thế
nào? Có trầm trọng không?
Bác sĩ đáp:
- Tôi vẫn
chưa biết được. Tối nay tôi trở lại.
Bác sĩ đến
lại vào buổi tối. Gần như suốt cả ngày con trai cha cứ mê man uể oải, và một chốc
lại ho. Đến tối thì cơn viêm phổi bắt đầu.
Chuyện đó kéo
dài mười ngày. Cha không thể diễn tả được những gì cha phải chịu đựng trong những
giờ phút dài vô tận đó, hết sáng lại tối, hết tối lại sáng.
Rồi đứa bé chết.
Và kể từ...
kể từ giờ khắc đó, cha không còn có một giờ nào, không còn một giờ nào, mà cái
hồi ức ác độc, cay đắng đó gặm nhấm, dày vò tâm trí cha không sống dậy trong
cha như một con thú hung dữ bị nhốt dưới đáy tâm hồn cha. Ôi! Giá mà cha có thể
phát điên được!
Ông Poirel
de la Voulte nhấc kính lên với một động tác quen thuộc khi ông đọc xong một văn
kiện, và ba người thừa kế nhìn nhau, tái nhợt, bất động, không nói lời nào.
Một phút
sau, ông công chứng viên tiếp tục:
- Phải tiêu
huỷ cái này thôi.
Hai người
kia cúi đầu, tỏ dấu hiệu đồng ý. Ông công chứng viên thắp một ngọn nến, cẩn thận
tách rời những trang chứa lời thú tội nguy hiểm khỏi những trang nói đến việc
phân chia tài sản, rồi ông ta cho chúng lên ngọn nến và ném vào lò sưởi.
Họ nhìn những
tờ giấy trắng đang cháy. Một lát sau chúng chỉ còn là những mảnh vụn đen. Và khi
thấy vẫn còn vài chữ đọc được trên mẩu giấy trắng, người con gái lấy mũi giày dẫm
lên những phần cháy dở, đẩy nó lẫn vào đám tro cũ.
Rồi cả ba đứng
nhìn một lúc nữa, như sợ điều bí mật đã bị đốt cháy còn có thể thoát ra khỏi lò
sưởi.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch từ nguyên tác
La confession / 10 novembre 1884
Guy de Maupassant