Tặng Lãm Thuý
Lời Nói Đầu Của Người Dịch
Cách đây gần hai mươi năm, trong chuyến đi công tác vùng Đông
Nam Á trong đó có Việt Nam, tôi có dịp ghé thăm cố đô Huế. Ban ngày đi thuyền dọc theo sông Hương thăm
các lăng tẩm. Buổi tối vợ chồng anh lái
đò cho gọi gánh hát lên thuyền, thắp nến thả trôi trên sông, rồi hát những bài
bảo là nhạc cung đình,xưa kia chỉ vua chúa mới được nghe, nhưng lại có cả những
bài tân nhạc như Mưa Trên Phố Huế v.v…
Ca nhạc sĩ đều là những người xuất thân từ nhạc viện Huế, trình diễn rất
cung cách, điêu luyện. Tôi không khỏi nhớ
đến Bạch Cư Dị, và bản dịch Tỳ Bà Hành của Phan Huy Vịnh(Phan HuyThực?) Bản dịch Tỳ Bà Hành của cụ Phan thật là một
áng văn chương tuyệt đẹp. Hai câu đầu
hay không bút nào tả xiết: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách, Quạnh
hơi thu lau lách đìu hiu. Hai câu ấy
trong nguyên tác là Tầm Dương giang đầu dạ
tống khách, Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Lá phong và hoa lau mùa thu xạc xào, sao sác. Hai chữ sắt
sắt ở cuối câu thật mạnh, thật đau xót, vừa có ý xào xạc, lại vừa có ý quặn
mình xót xa, héo hắt. Cụ Phan bỏ không dịch
hai chữ phong diệp, nhưng hai chữ lau lách của cụ đã gói trọn cả cảnh trời
sầu muộn biệt ly. Hai câu ấy thật không
sao có thể dịch hay hơn được. Lại có những
câu như cùng một lứa bên trời lận đậnthật
là tuyệt hay. Tuy nhiên trong bản dịch ấy
lại có dùng nhiều chữ Việt tuy không phải là những chữ cổ, cụ Phan cách chúng
ta cũng chỉ dưới hai trăm năm, nhưng nghe đã ít quen tai, ý nghĩa dễ bị lạc đi
hướng khác. Chẳng hạn như hai câu ba, bốn: Người
xuống ngựa, khách dừng chèo, Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty. Trúc ty
thì có thể hiểu ngay là trúc và tơ, là sáo và đàn. Nhưng nhớ
chiều trúc ty thì trước khi đọc nguyên tác tôi đã hiểu nhầm là nhớ một buổi
chiều nào đó trong quá khứ từng ngồi nghe đàn hát với nhau. Đến chừng đọc nguyên văn hai câu ấy làChủ nhân há mã khách tại thuyền, Cử tửu dục ẩm
vô quản huyền, không thấy có buổi trưa, buổi chiều gì cả, tôi mới vỡ lẽ ra
chiều ở đây là chiều hướng, là dáng vẻ, là chiều
như trong câu Kiều Xem trong âu yếm có
chiều lả lơi. Hay là câu người xuống
ngựa, khách dừng chèo thì tôi không hiểu rõ là người nào xuống ngựa, phải
sau khi đọc nguyên tác mới hiểu đó là người chủ
tiệc tức Bạch Cư Dị khi đến nơi, xuống ngựa, thì bạn đã ngồi đợi trên thuyền.
Trở về đất Mỹ, tôi bâng khuâng nhớ lại tiếng đàn tiếng hát giữa
cảnh sông nước lung linh, lẩm nhẩm ngâm mấy câu Tỳ Bà Hành, rồi tự lúc nào
không biết đã dịch lại cả bài thơ ấy, cố sao cho gần với tiếng Việt bây giờ. Nay tình cờ có người bạn Văn mới làm bài thơ
có nhắc đến mấy tứ trong Tỳ Bà Hành, tôi chép lại ra đây gửi bạn cùng đọc.
Tô Thẩm Huy, Houston, Tiết Hạ Chí, Đinh Dậu 2017
Lời Tựa Của Bạch Cư Dị
Nguyên Hòa thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận Tư Mã. Minh
niên thu, tống khách Bồn Phố Khẩu, văn chu trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm
tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh. Vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường
học tì bà vu Mục, Tào nhị thiện tài. Niên
trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ
khúc. Khúc bãi mẫn nhiên, tự tự thiếu tiểu
thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tụy chuyển tỷ vu giang hồ gian.
Dư xuất quan nhị niên, điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn thị
tịch thí giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi phàm lục bách
nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ Bà Hành.
元和十年,予左遷九江郡司馬明年秋,送客湓浦口,聞舟中夜彈琵琶者, 聽其音錚錚然有京都聲問其人, 長安倡女嘗學琵琶於穆曹二善才,年長色衰, 委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲。曲罷憫然,自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴轉徙於江湖間。
予出官二年, 恬然自安, 感斯人言是夕始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之凡六百一十六言, 命曰琵琶行。
Năm Nguyên Hoà thứ mười (815) ta bị giáng về làm Tư Mã quận Cửu
Giang. Thu năm sau tiễn bạn trên bến
sông Bồn, chợt từ thuyền ai réo rắt tiếng tỳ bà giữa đêm khuya, nghe thánh thót
nét nhạc kinh đô. Hỏi ra thì người ấy
trước là ca kỹ ở kinh thành Trường An, từng học đàn với hai danh sư họ Mục, họ
Tào. Lúc xế chiều tàn suy nhan sắc, gửi
thân về làm vợ kẻ lái buôn. Ta bầy tiệc
mời nàng dạo mấy khúc. Đàn xong, nàng ngậm ngùi thuật lại dâu biển đời mình, từ
những ngày thanh xuân vui sướng, đến lúc tiều tuỵ nổi trôi trên chốn sông hồ.
Ta làm quan lưu đầy đã sang năm thứ hai, lòng vẫn an nhiên tự
tại, đêm nay chợt cảm lời ai mà chạnh xót phận mình, viết lên bản trường ca sáu trăm mười sáu chữ này để tặng nàng, gọi tên
là Khúc Hát Tỳ Bà.
KHÚC HÁT TỲ BÀ
Bản Dịch của Tô Thẩm Huy
Bến Tầm Dương hoa
lau sao sác,
Thu úa vàng se sắt cánh phong.
Ngựa dừng, tiễn bạn trên sông,
Chén đưa muốn cạn, chạnh không phách đàn.
Say càng hận hơp tan, ly biệt.
Giòng biệt ly thẫm biếc trăng soi.
Bỗng nghe trên sóng chơi vơi,
Tỳ Bà thánh thót đầy trời mênh
mang.
Chủ cùng khách bàng hoàng, xao xuyến,
Lần thuyền xuôi, tìm đến làm
quen.
Ngập ngừng, đàn bỗng lặng im,
Khêu đèn bầy tiệc, nài xin gặp người.
Mời gọi mãi, vâng lời lộ
diện,
Nửa đàn che, e thẹn mặt hoa.
So dây mấy tiếng ngân nga,
Chưa vào giai điệu đã ra hồn cầm.
Mỗi dây đàn, mỗi âm thổ lộ,
Mỗi nỗi niềm sầu khổ khôn nguôi.
Nhíu mày nắn phím đầy vơi,
Bao điều thầm kín cất nơi đáy
lòng.
Tay ngọc vuốt, bắt, buông, thoăn thoắt,
Chuỗi âm thanh réo rắt, đê mê.
Dây trầm mưa gió dầm dề,
Dây thanh âu yếm tỉ tê nỗi niềm.
Dòng châu dội, vang trên bàn ngọc,
Hạt nhỏ to, dồn dập, nỉ non.
Vút cao oanh hót véo von,
Nghẹn ngùng thác đổ
trên nguồn thênh thang.
Đang thánh thót, suối đàn ngưng bặt,
Thời gian như đứng lặng, ngừng
trôi.
Không gian mênh mông chơi vơi.
Nghe trong thinhlặng kiếp người buồn
tênh.
Đàn lại vỡ, trừng lên gay gắt,
Thét gươm đao, ngựa sắt ầm vang.
Dứt bài, quét phím mặt đàn,
Bốn dây lụa xé, vút lan đêm trường.
Đêm ắng lịm, khoang
thuyền im phắc.
Vầng trăng thu ngây ngất lòng
sông.
Đàn xong, cất phím trầm ngâm,
Đứng lên vuốt áo giãi phân mấy lời.
Rằng, xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô, trước ở Trường An.
Mười ba đã thạo ngón đàn,
Giáo phường đệ nhất, giữa làng
thiện âm.
Dễ ai hơn giọng cầm hiu hắt ?
Vẻ phấn son, ai chắc nhường
ai ?
Ngũ Lăng say đắm bao trai,
Tranh nhau lụa đỏ, chen vai khăn hồng.
Lúc cao hứng, tuột trâm, gẫy lược.
Khi tiệc vui, đàn suốt năm canh.
Quần hồng hoen rượu ngày xanh,
Thu đông hoan lạc, xuân thanh lỡ làng.
Mảnh nhan sắc, thời gian giầy xé,
Vắng ngựa xe quạnh quẽ riêng mình.
Dì chết, em lại tòng chinh,
Về già nương tựa chút tình khách
buôn.
Khách ham lợi mải đường buôn bán,
Phù Lương đi cả tháng không về.
Sông trôi trăng lạnh não nề,
Một thuyền, một bóng đi về lẻ loi.
Đêm khuya chợt mơ trời hội
cũ,
Hồng lệ hoen mộng thủa nào xưa…
…Ta nghe đàn
đã xót xa,
Lại thương một kiếp tài hoa, dạt
vùi.
Cùng góc bể, chân trời phiêu bạc,
Không hẹn mà bước lạc gặp nhau.
Ngỡ ngàng mấy cuộc bể dâu,
Trong đêm hạnh ngộ cảm sâu nỗi
này.
Ta từ thủa thân đầy đất trích,
Về Tầm Dương ngoạ bịnh một năm.
Tầm Dương hoang vắng thanh âm,
Quanh năm suốt tháng tuyệt không tiếng
đàn.
Chỗ ta ở Bồn Giang đất thấp,
Chung quanh nhà lau trúc tràn lan.
Đêm nghe quyên nhỏ máu than,
Ngày nghe vượn hú gọi đàn thê
lương.
Thân vò võ, tay đơn, chén
chiếc,
Sớm bên hoa, khuya thiếp trăng
thu.
Sáo quê thổi tiếng inh u,
Trõi tai nghe mãi lọt ru được nào.
Đêm nay được dạt
dào âm nhạc,
Thơm cả hồn, đến lạc Thiên
Thai.
Gặp nhau, đêm ngắn mộng dài,
Đàn thêm một khúc cho ai thoả
lòng...
Ngồi xuống gảy một cung u thảm.
Bao đáy lòng nứt rạn chênh vênh.
Kìa ai ngấn lệ long lanh,
Riêng ta, Tư Mã, áo xanh nhạt
nhoà.
Vì nàng, viết khúc Tỳ Bà.
TỲ BÀ HÀNH
Bạch Cư Dị
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thì mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phiết
Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê my tín thủ tục tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh long mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy há than
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ
phá thủy tương bính
Thiết kỵ đột
xuất đao thương minh
Khúc chung
thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất
thanh như liệt bạch
Đông thuyền
tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến
giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm
phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y
thường khởi liễm dung
Tự ngôn bản
thị kinh thành nữ
Gia tại Hà mô
lăng hạ trú
Thập tam học
đắc tỳ bà thành
Danh thuộc
giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giáo thiện tài phục
Khúc bãi tằng giáo thiện tài phục
Trang thành mỗi
bị Thu Nương đố
Ngũ lăng niên
thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng
tiêu bất tri số
Điền đầu ngân
bề kích tiết toái
Huyết sắc la
quần phiên tửu ố
Kim niên hoan
tiếu phục minh niên
Thu nguyệt
xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng
quân a di tử
Mộ khứ triêu
lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh
lạc xa mã hy
Lão đại giá
tác thương nhân phụ
Thương nhân
trọng lợi khinh biệt ly
Tiền nguyệt
Phù Lương mãi trà khứ
Khứ lai giang
khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền
nguyệt minh giang thủy hàn
Dạ thâm hốt mộng
thiếu niên sự
Mộng đề trang
lệ hồng lan can …
… Ngã văn tỳ
bà dĩ thán tức
Hựu văn thử
ngữ trùng tức tức
Đồng thị
thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng
hà tất tằng tương thức
Ngã tòng khứ
niên từ đế kinh
Trích cư ngoạ
bịnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa
tích vô âm nhạc
Chung tuế bất
văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn
giang địa đê thấp
Huỳnh lô khổ
trúc nhiễu trạch sanh
Kỳ gian đán mộ
văn hà vật
Đỗ quyên đề
huyết viên ai minh
Xuân giang
hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ
tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn
ca dữ thôn địch
Ấu á trù triết
nan vi thính
Kim dạ văn
quân tỳ bà ngữ
Như thính
tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh
toạ đàn nhất khúc
Vị quân phiên
tác Tỳ Bà Hành
Cảm ngã thử
ngôn lương cửu lập
Khước toạ xúc
huyền huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự
hướng tiền thanh
Mãn toạ trùng
văn giai yểm khấp
Toà trung khấp
hạ thùy tối đa
Giang châu Tư
Mã thanh sam thấp
潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽泉流水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽泉流水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
住近湓江地低濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
住近湓江地低濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。
Bản Dịch Tỳ Bà Hành của Phan Huy Vịnh
Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khihầurẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ, hỏi ai đàn tá ?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn-ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khihầurẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ, hỏi ai đàn tá ?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn-ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mãi gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mãi buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn.
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời,
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Đến ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
Ngũ lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mãi gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mãi buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn.
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời,
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Đến ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.