Ảnh internet
Ai đó đã nói, có rất nhiều nơi để
đến, nhưng dường như chỉ có một chốn để quay về..., ba dấu chấm này để bạn
điền vào nơi chốn của riêng bạn. Để tôi đoán xem, có thể là, gia đình, quê nhà,
một nơi ước hẹn..., ngay cả, một giấc mơ, nơi này coi bộ quyến rũ nhất, đối với
tôi...
Về, là về lại một nơi mình đã chia
xa, một chốn cũ, nơi mình được ngồi yên lặng để bầu than thuộc chuyền cho mình
những dưỡng chất đã tiêu hao theo những dặm dài, để được nhìn thấy mình cùng
không khí ấy mới mẻ thế nào, cũ kỹ ra sao. Hẳn sẽ là bước về nôn nao hối hả.
Về, là về cõi thời gian, một dòng chảy
mơ không bờ bến, nếu không dành tâm tới lui với nó, khuấy lên hiện tiền một tiếng
gọi, vén chút mù sương của ký ức, dợm một bước những phút giây sẽ tới, thì dòng
chảy ấy sẽ hư vô. Nên bước về như thước phim quay chậm.
Và sẽ chập chùng
trên đó những bước chân của xác phàm lẫn tâm thức. Nơi chốn ấy là Sài Gòn, thời gian ấy là Sài Gòn.
Vâng, Sài Gòn.
Dạo tôi còn học
lớp ESL tại Santa Ana College, thầy Lewis cho viết một bài văn tự do, tôi đã viết một đoạn ngắn
về Sài Gòn, với những quán ăn khuya và mưa đêm, nhân lúc nói chuyện ngoài giờ học,
thầy nói một ngày nào ông sẽ đi Sài Gòn để thưởng thức trời mưa trong không khí
ăn đêm. Tôi đã phải nói rõ thêm với ông rằng, Sài Gòn đã là tên xưa, và tại sao
nó trở thành tên xưa. Điều này làm tôi xót như động phải vết thương, vì cái tên
ấy nó đã là một phần của thân-thể-ký-ức tôi, là một dòng chảy cảm xúc trong huyết
quản tôi.
Những nốt nhạc ký ức tôi gảy lên hôm
nay, ước sao là một tiếng đàn hòa trong bản giao hưởng hồi ức của những tâm hồn
đồng điệu, một thời, như tôi, lớn lên từ lòng con phố mang một tên đã thành xưa
này. Đó là âm những con chữ cho tôi lần về, và bạn thân ơi, dường như tôi chỉ
đang quyến luyến nơi này qua đường tơ kỷ niệm.
…Tôi bước lên những bậc thềm mịn rêu,
bước chậm, sợ mình sẽ bị trượt ra sau, cái ngã ngửa chẳng khác nào cái rớt xuống
trần gian đầy ngỡ ngàng của hai chàng Lưu Nguyễn. Tôi chưa muốn thế, tôi đang
muốn sống cõi phi thực kia với từng rung động e dè chậm chậm, để nghe chạm vào
cánh cổng tháng năm hoen rỉ, và dù nhẹ nhàng đến thế nào cũng sẽ ghê răng bởi
tiếng rít của một cánh cửa lâu ngày không mở. Hồi hộp, nên tim tôi đập khác thường.
Ngôi nhà ba mẹ tôi ngày trước, có
hàng tràm bông vàng bên kia vệ đường, tới mùa hoa gieo phấn thì bụi vàng xác
hoa li ti đầy trước ngõ, nếu tôi bắt chước thiền sư Cảnh Sầm theo cánh hoa rụng
mà về (Hựu trục lạc hoa hồi) thì hẳn không thể nào tới được nhà, vì hàng
cây giờ đã không còn. Đây là nơi tôi luôn mong để trở về. Thật ra, tôi đã biết
ngôi nhà đã khác hẳn ngày xưa lúc còn là biệt thự nhỏ, tường sần sùi màu hồng
nâu ẩn hiện sau rặng tre tàng mận (dưới gốc mận này là nơi chôn nhau con trai đầu
lòng của tôi) và hoa hồng tầm xuân lòa xòa trước cổng, nhưng sao lòng vẫn buồn
buồn khi nhìn nó bây giờ, lồ lộ phô những cửa kiếng ra mặt đường, và cũng chỉ
còn non một nửa căn.
Tôi đứng yên trước cổng, nếu có bấm
chuông thì cũng sẽ không có ai mở cửa, tần ngần cầm chiếc chìa khóa, tôi mở, tiếng
lách cách nghe lạ như lâu lắm chưa từng. Từ ngày cha tôi mất, từ ngày mẹ tôi rời
khỏi đây, nhà không ai ở, tôi nhìn những đốm sáng chập chờn trên chiếc ghế dài,
lòng bỗng như một vạt nắng xa vắng, cũng may là Hương, cô em dâu, đã qua lau
chùi trước chứ nếu bây giờ tôi nhìn thấy lớp bụi đóng trên bàn ghế nữa thì chắc
tâm hồn tôi sẽ bị niêm phong luôn với nỗi cô quạnh. Tôi đi thẳng lên lầu nơi có
bàn thờ, mùi gỗ của cầu thang âm ẩm, tôi nhìn hình cha, một chút sợ sợ, không
biết vì sao, có lẽ tại âm dương nghìn trùng trong căn phòng thờ im lặng, tôi đặt
tay lên khuôn hình, ba ơi, con về với ba đây. Anh Khải dặn nhớ thắp
nhang, nhưng chắc gì đường đi của khói đến được cha hơn hơi ấm của bàn tay?
Phất phơ màu áo lụa mỡ gà bộ bà ba xô
dạt tôi, A, tôi đã theo màu áo này mà về.
... Màu áo tôi không quên cha tôi mặc
tối hôm ấy. Buổi tối, như vậy thôi, đừng nhớ thêm gì nữa về thời gian..., một
toán lính xông vào nhà tôi như một trận bão, túa lên những phòng và dồn 8 người
gia đình tôi xuống phòng khách. Một tờ giấy được dơ lên, một lời được đọc. Đêm
đóng lại theo từng bước chân của mỗi người được gọi lên phòng của mình. Chắc ba
mẹ và các em cũng mang tâm trạng như tôi, khi lên phòng mình, có hai người
lính, tôi thấy sách vở, cùng những lá thư nháo nhào trên sàn. Tôi bị nghe những lời rất lạ tai, phản
động, đồi trụy, rồi Tagore, Mozart,
Khánh Ly, Lệ Thu… tất cả bị tóm lại trong một cái bao lớn, tôi phản xạ
giựt lại đĩa nhạc Mozart, vì tôi chợt nghĩ sao Mozart lại là điều có thể bị tịch
thu, người lính hất tôi ra, mất thăng bằng tôi ngã đập vào thành giường, cú đau
điếng khiến tôi biết rằng phải im lặng, tôi đã lén nhét một lá thư của người
yêu vào túi áo, như muốn tìm một sức mạnh, nhưng nó lại làm tôi ứa lệ. Tất cả
phòng đều bị niêm phong. Có ai nghe tiếng một chùm chìa khóa quăng mạnh xuống mặt
bàn gỗ như thế nào không, có thể không là gì nhưng đêm đó âm thanh ấy đã làm cả
nhà tôi giật nẩy người. Đó là chùm khóa nhà. Và sau đó là tiếng loảng xoảng của
những chiếc còng tay. Ba tôi đi, hai em trai tôi đi, bước lên một cái xe bít
bùng. Họ đang bước vào bóng tối. Cùng đi là tất cả sách vở trong nhà. Tiếng những
chiếc xe nhà binh như tiếng rú. Còn lại mẹ và chị em tôi, 5 người, co cụm nơi
phòng khách, nơi có để hai cái chiếu và một cái màn. Ở ngoài cổng có hai người
lính gác. Mẹ và tôi nắm tay nhau, tôi còn nhớ rất đậm cái run lẩy bẩy, bần bật
của hai bàn tay nắm lại với nhau, vai mẹ rung nhưng mắt mẹ khô lạnh, cô em nhỏ
thút thít khóc, cậu em kế thì đanh mặt lại ngồi cúi đầu, cậu bé út thì giương
hai con mắt trẻ thơ rất buồn, ngơ ngác, nó không khóc, chỉ nhìn mẹ và chị rồi nằm
xuống cong người lại trên chiếu. Mẹ tôi nói như thầm, Khánh ạ, mẹ con mình
phải chết thôi. Nhà mình còn hai bình gas. Tôi giật thót mình, nhưng má
ơi, hai bình có đủ chết không hay là chỉ làm mình ngắc ngoải thì có nước chết với
họ -Mình sẽ vào bếp đóng kín cửa lại con ạ. Mẹ bỗng quay sang em gái tôi,
17 tuổi, giọng bà nhỏ, quyết liệt, Chết không con, Khanh -Chết! con bé gật
phăng cái đầu dập dềnh mái tóc mây. Mẹ lại hỏi cậu em 16 tuổi, giọng có vẻ như
bà đã quyết định, Chết nhé Khiết -Dạ, Chết! Thằng bé nói với vẻ lì cố hữu
của nó. Rồi tới cậu em út,11 tuổi, giọng mẹ nhẹ nhàng, Chết không con, Khiêm?
-Chết! Tôi rúng động hồn phách, nó nói chết nhanh như thể mẹ hỏi ăn không
con-Ăn! Mẹ không hỏi tôi, vì bà biết tôi sẽ là đứa nói không. Tôi kéo mẹ nằm xuống
chiếu, thì thầm, má không nghĩ là sẽ làm vậy, đúng không. Mình phải sống má ạ,
anh Khải còn mất tích chưa biết sao, còn Khương làm việc ở xa nữa, mình có những
6 người, còn lo cho 3 người vừa bị bắt nữa, mình dư sức sống mà má. Chúng
tôi đã đủ sức sống để lội qua những tháng ngày nước ngược ấy, có cả những tiễn
đưa âm thầm trong tâm trạng một đi là có thể vĩnh viễn không gặp lại. Cha tôi
trở về sau đó 7 năm, gầy guộc, ốm đau, ngày qua ngày, lặng lẽ làm tiếp cuốn tự
điển đang làm dở. Lần sau cha lại rời nhà ra đi một lần nữa, lần này thì không
có ngày trở lại để làm tiếp cuốn sách vẫn chưa xong. Tôi quên chưa hỏi mẹ lúc mất
cha có đang mặc bộ bà ba lụa màu mỡ gà không. Tôi nhìn những cây viết và sách để
trên bàn thờ mà thấy cô liêu quá, cuộc đời, con đường nào bây giờ cây cô độc ấy
đang đi. Có bạn bè chứ, ba ơi... Hình cha mờ như có hơi nước, dường như
vừa sóng sánh trên vô chung thời gian, tôi tin thêm một lần này, dòng chảy buồn
ấy sẽ không gợn sóng nữa, nó sẽ yên, chảy tận lòng sâu.
Tắp vào bến nhà ba mẹ tôi chuyến này,
có vợ chồng cậu em út ở Úc về, cậu em năm nào gật đầu đồng ý chết một cách vô
tư bây giờ đã là một người đàn ông đang mon men tới gần cái tuổi tri thiên mệnh.
Về cùng là một anh bạn thân của em, Quỳnh, người đã nấu những bữa cơm rất ngon
cho 6 người, và mỗi sáng vẫn làm cho tôi một ly cà phê thật đậm tình bè bạn.
Còn có vợ chồng con trai lớn của tôi cùng bé gái 8 tháng tuổi nữa. Khánh Chi. A,
tôi biết rồi, tiếng gọi tôi về chính là âm thanh ban sơ của tiếng khóc, là mùi
sữa thơm từ khóe miệng bé, và khanh khách tiếng cười đang rù quyến mọi cảm xúc
tôi. Nếu tôi không về để mà hít hà cái mùi da thịt thơm non này thì hẳn là
tôi cứ ngồi đó mà nói về mùi lavender…
...Buổi sáng, tôi đón ly cà phê từ
tay Quỳnh, nắng chiếu ấm trên bàn, ra cổng lại thấy một gói na treo tòn teng,
chắc chị Liên đã tạt qua từ sớm, cắn một miếng na nghe tan trong miệng chút
lòng chắt chiu. Tôi đứng trước hiên phòng nhỏ của mẹ, nắng sáng mà nóng ướt da,
đang tưới cây, bỗng nghe vọng lên từ cổng dưới, “có thư đây”, trái tim tôi như
nhảy ra ngoài, cây sứ như có con gió nào tới khua tàng lá và hương hoa rộn rã,
tôi nhẹ như mây lướt qua những bậc thang gỗ mầu nhiệm… hóa thành cô gái nhỏ,…
thân quen cổng nhà cũ, người đưa thư năm xưa, “con gái có thư con đây”, cô vội
vàng, thò tay qua cổng, rối rít, “đưa con mau lên”, và khi những lá thư với những
sọc xanh đỏ trắng viền quanh phong bì nằm gọn trong tay thì cô lại thưởng cho
bác ít tiền, bác đi chiếc xe Honda Dame màu xanh lá chuối, hằng tuần đem đến
cho cô những lá thư thơm mùi biển xa, nỗi nhớ nhung theo nửa vòng trái đất buộc
thành lời hò hẹn dài..., cô không biết sẽ dài một đời...
A, tôi biết rồi, chính sợi tơ hẹn ước
lênh đênh trên đường mộng ảo này dẫn tôi về, thành phố mang tên Sài Gòn, nơi tôi đã lớn lên, chỉ
nơi này tôi mới lọt được vào nếp gấp xô lệch của thời gian, trở lại mọi thứ,
như cũ, thời hai mươi vàng mười, lời tình tự mưa đêm thơm mùi hoa sứ, mùa hạ ướt
những cơn mưa mà cho dù bao nhiêu lần được làm người nữa, nếu còn là mình, tôi
còn nghe tiếng rất trong của nó rơi trước hiên nhà che chắn cho tôi một giấc
mơ. Một nhịp chẩy diễm ảo đang đồng hóa tôi, tôi có đang trôi đi hay mãi mộng
mơ đứng bên cổng cổ tích nhìn cánh bồ câu ngậm thư đưa tin yêu về?
...Một hôm, tôi gọi taxi lên phố. Cô
đi đâu? -Cho tôi tới trường Luật, đường Duy Tân- -Dạ đâu cô? Tôi mỉm cười
thích thú, vậy là mình đã nói ra được câu như lúc nào đó trong quá khứ rồi. À
xin lỗi, cho tôi tới trường Kinh Tế đường Phạm Ngọc Thạch. Đấy vật đổi sao
dời. Tới đây thì tôi tự thắc mắc, Duy Tân là tên một vì vua yêu nước, tại sao
phải bị thay tên, mà hẳn ông bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nơi cõi trên chắc cũng chẳng
lấy làm vui khi tên mình thay tên vua Duy Tân. Cái tên quen thuộc đến nỗi chỉ cần
nói Duy Tân là mặc nhiên động đậy đến kỷ niệm thời sinh viên Luật (và Kiến Trúc
của ai nữa chăng, dù trường này có cổng ở đường khác nhưng sát hông trường Luật
nên kỷ niệm chắc cũng có chút bà con). Một thời sinh viên chúi đầu vào sách vở,
cho đến một ngày, đến trường bỗng ngỡ ngàng, bọn con gái chúng tôi hỏi nhau với
giọng thảng thốt, sao lớp vắng thế này, bọn con trai đâu cả? ra năm đó nếu
tôi nhớ đúng,1972, vừa có một luật động viên đôn quân, tôi lúc đó như bị va đầu
vào tường, cú đập choáng người. Đã từ bao lâu sinh viên Sài Gòn như tôi lúc đó
đi bên lề cuộc chiến? Đã bao lâu rồi? dân Sài Gòn luôn tin chắc rằng Sài Gòn là
một ốc đảo mà con sóng của chiến tranh không thể đổ vào bờ. Đã bao nhiêu người
trong lớp sinh viên như tôi tin rằng Sài Gòn là biên giới dừng lại của đường đi
súng đạn chủ nghĩa? Tôi mắc cỡ và cảm thấy có tội, cũng như không hiểu nổi hệ
thống dân vận lúc ấy đã để cho con lũ phong trào phản chiến lợi dụng kẽ hở của
bờ đê dân chủ tự do ngập lụt hết ý thức về một cuộc chiến đang xảy ra, là của
mình, ở cạnh mình, đe dọa sự sống còn của mảnh đất có Hòn Ngọc Viễn Đông lấp
lánh. Chúng tôi như những viên gạch lát ngô nghê. Nghêu ngao những bài phản chiến
trên những ra đi vĩnh viễn của cha, anh, bạn bè mình ngoài chiến trường. Bây giờ
tôi đang đứng đây, nơi ngày trước là lối cổng nhỏ khiêm cung trầm lắng màu gỗ
hai cánh cửa nhỏ, trên là bảng Luật Khoa Đại Học Đường, như nghe được hơi lạnh
tiếng gió thổi vào lớp học khua buồn những hàng ghế trống buổi chiều xưa, có
bao nhiêu bạn bè từ chỗ ngồi ấy ra đi không về nữa? Tôi thấy qua nắng muộn ánh
mắt của những cô gái hai mươi, Châu Tỷ, Liêm, Liên, Gấm, Hoa, Xuân…và tôi, nhìn
nhau, biết rằng, từ hôm ấy, tin chiến sự là vết mực đen phết trên từng trang
sách học.
Tôi đi bộ bên vệ đường Duy Tân, đã mất
rồi lối đi đất nhỏ với hàng cây dầu, nơi tôi lộng gió tà áo vàng trong tấm hình
gửi người vạn dặm, thôi hãy dùng ký ức mà đi để lọt vào không khí Saigon thời
yêu người thiết tha…, Hồ Con Rùa, cây đa cổ thụ trước Viện Đại Học Saigon
có tôi, Huệ,Thôi “Oanh Oanh” thấp thoáng những tà áo dài trong nắng… Chập chờn
những cánh bướm trên con đường rộng thênh thang băng qua ngôi rừng nhỏ trước
Dinh Độc Lập, nhà thờ Đức Bà, và kìa một con bướm vàng bay vội vã qua những bậc
cấp bưu điện rồi chui vào thùng thư, ngày mai người ta sẽ lấy thư…
A, tôi lần về theo dòng máu đẩy của
nhịp đập, hồng hào lại nơi nương náu của kỷ niệm, trái tim Sài Gòn ưng ức hoài
nơi ngực trái…
Nơi ấy bây giờ, người đông hơn nên đường
chật đi, nhà nhiều hơn, cao hơn, nên đất trời trong tầm mắt bị nhỏ lại. Tôi như
cái bóng câm đi giữa muôn âm thanh hình ảnh ồn ào của một thế giới khác. Có phải
đã muôn trùng thời gian đi qua nơi này, và tôi thấy mình buồn tẻ, lạc lõng, cũ
xưa. Tôi đã nói với Nguyễn Lương Vỵ như thế, trong một quán cà phê, dưới bóng một
cây trứng cá, có một trái nhỏ rụng đúng vào ly cà phê của tôi. Tôi cũng đang
rơi một cách lạc điệu, như thế chăng. Vỵ đọc cho tôi nghe …những gương mặt lặng
lẽ/ treo trên hai sợi dây điện song song/ vắt ngang cành trứng cá … tôi hỏi,
thơ ai mà lọt hẳn vào tàng cây trứng cá này vậy. Vỵ đưa cho tôi tập thơ nhỏ,
thơ Đoàn Minh Châu. Tôi dở ra ngẫu nhiên, những câu thơ, kỷ niệm vẹn nguyên
mỗi năm…/ em vẫn là người hoài cổ/ sống bằng nhớ nhung ngày sắp tới…
Tôi đang được sống
thực một nỗi nhớ. Nó đang dắt tôi về.
... Rồi cũng được nghe lại tiếng biển.
Ngôi nhà Hoa Sứ của anh chị Khoa-Geneviève, trong một xóm chài, nằm gần góc
cong của bờ biển kéo ra Long Hải. Chị nói chị sẽ đổi tên nhà là Sao Biển. Buổi
sáng tôi xuống bãi xem ghe đánh cá về, cá đánh bắt ven bờ chỉ toàn là cá nhỏ.
Xóm chài rất nghèo. Chiều chiều trẻ con đi đầy trên bãi để bắt còng hay cào
nghêu. Bờ biển ứ rác và phế thải của người. Nước biển đục ngầu. Nhưng nhạc sóng
vẫn trong. Gió biển thổi mặn môi. Cát biển bay xót mắt. Đêm ở đó tôi ngủ trong
tiếng mưa, rơi tong tong trước thềm gạch tàu. Tiếng sóng rì rầm xa xa gần gần,
không còn là tiếng u u mường tượng trong vỏ ốc,
tôi choàng dậy đứng bên của sổ, nhìn và nghe, biển kia, mưa kia, thân
thiết lắm với mùi hương ký ức…
Bao giờ nữa anh em mình lại được quây
quần bên một bàn ăn dài, ăn những món hải sản thơm mùi biển của chúng ta kết với
rượu vang quê hương chị Geneviève?
Những cánh hoa giấy đỏ buông xuống vẫy
tiễn tôi, ánh mắt nâu hạt dẻ của chị nhìn theo, nụ cười hiền của anh Khoa như
cánh thuyền nhỏ, bập bềnh trên sóng. Tôi khép mắt để nghe rưng một hạt lệ, tiếng
rơi trong trên mặt hồ thời gian để hiện ra những ảnh hình tưởng đã quên dưới
dòng phẳng lặng…
... Lại một buổi cả nhà leo lên xe,
lòng ai cũng vui vì nơi tới là Đà Lạt. Ôi Đà Lạt một thời là ước mơ của tôi, đi
Đà Lạt hồi đó bao giờ cũng là một phần thưởng khi học hành có kết quả tốt, vì
thế ngày đó tôi đi Đà Lạt không quá ba lần. Tôi không về ký ức mà đi đến một
nơi giấc mơ chưa thành.
Đến Đà Lạt vào tối, trời mưa. Tôi ngồi
co trong chiếc ghế cạnh chỗ Khánh Chương lái xe, nhìn mưa rơi hối hả rồi tan
trên mặt kính, tôi thoát ra cơn mỏi mắt buồn ngủ vì nhìn mãi vào chiếc cần gạt
nước, quay ra phía cửa sổ. Phố lóa xóa mặt gương, đèn xe xanh đỏ lập lòa như những
ánh lân tinh ở một phố âm, cậu em ngồi hàng ghế sau vừa nói, không biết đêm
Đà Lạt còn chợ âm phủ không, tối nay tụi mình đi nhen. Giọng cậu không có vẻ
chi là phấn khởi mà rù rì như nói trong lúc đang ngủ, tôi cười, nếu hết mưa
Khiêm à, giọng tôi cũng nhỏ, tại không khí dào dạt mưa chăng. Tôi chợt bấm
kính cửa xe xuống, mưa hắt lạnh, và tôi giật mình vì tiếng còi xe quá lớn, vội
bấm kính lên. Hình như có cả tiếng nói nữa, không phải âm của Đà Lạt, hồi trước,
khi tới đây, tôi gặp rất nhiều tiếng Huế. Cảm giác lúc chạm vào gió vào mưa Đà
Lạt thế nào nhỉ, giật mình vì tiếng còi xe, vì âm giọng nói quá lạ, chỉ vậy
thôi. Khi đi ngang khách sạn Anh Đào, tôi mơ màng thấy mình cùng các bạn đang đứng
dán những tờ cổ động cho liên danh ứng cử dân biểu của cha tôi năm nào, đó là lần
thứ hai tôi lên Đà Lạt. Lần đầu, vừa xong năm thứ nhất Luật, cha thưởng cho một
chuyến đi, thật đáng nhớ, tới nơi người lớn ngồi nhà đánh bài, để ba con nhỏ là
tôi, em Khanh và Bích, con bác Chi, ngồi chèo queo nơi phòng khách có ngọn lửa
nhịp nhàng trong lò sưởi, tôi thì không sao (vì có một nỗi nhớ cặp kè, đâu có một
mình). Kỳ đó Đà Lạt chỉ là Hồ Xuân Hương và quán cơm Như Ý. Hết. A quên, còn có
một con dốc nằm thơ dại đẫm ánh trăng cùng Bích và một chàng sinh viên trường
Chính Trị Kinh Doanh nữa. Lần thứ hai vui hơn vì đông bạn bè, lại được đi chơi
thoải mái, nhớ những hạt mưa hắt ngược trên đỉnh LangBiang, có Hà cầm đàn ngồi
hát cho một cô gái Đà Lạt …Đưa em về dưới mưa nói năng chi cũng thừa…(Nguyễn
Tất Nhiên, Phạm Duy) trời lạnh giọng chàng run hay tại người đẹp như mơ? có Tiến
với giọng Bắc trầm, vừa hát ta nghe nghìn sợi nhỏ rớt xuống đời…(TCS) vừa
bấm máy chụp hình, có Khương điều động việc dán bích chương, kỳ đó liên danh
cha tôi thất cử nhưng chúng tôi được no nê Đà Lạt gần một tuần, có Thanh giọng
như tiếng gió thổi qua tua lá thông, có Tính đọc thơ giọng Bắc nũng nịu, kéo
đêm Đà Lạt nhẹ lơi như khúc nhạc dạo đầu, trời mưa nho nhỏ, vạt áo em xưa,
anh giữ trong tay, lời tình chợt ngỏ, em khóc bất ngờ, đêm run bóng lá, nho nhỏ
trời mưa… thơ tôi viết cho ai vậy Thanh?
Có người ở xa nhờ tôi chuyển lời chào
đến quỳ vàng, nhưng đi trên đường không thấy một mắt quỳ nào dòm ngó, quỳ ơi,
người đã muốn một cây quỳ vàng trên mộ cỏ mốt mai đấy, lãng mạn quá tình yêu dã
quỳ... Và cũng chẳng có một cánh én nào dưới mái lầu Hotel du Parc như người kể,
chỉ chênh vênh con gà trên đỉnh nhà thờ có lẽ là chứng nhân chung thủy của thời
gian và gìn giữ kỷ niệm của người dân Đà Lạt, của người yêu Đà Lạt nay đã tản mạn
những
phương trời.
Đến tối, đi dạo Đà Lạt đêm, thì tôi
thật sự thất vọng, không còn một Đà Lạt trong trầm lặng rét nữa, những người trẻ
đi thành nhóm đông la hét ồn ào, đứng trên bậc thềm cao ngó xuống khu chợ Hòa
Bình chỉ thấy người, nườm nượp bát nháo. Bên lề thì la liệt những đống quần áo
cũ bán mua tấp nập. Ôi, muốn lãng mạn một chút với Đà Lạt cũng không xong rồi.
Tôi nhớ đến tiếc con đường dốc trong đêm bập bùng ánh lửa của người dân tộc bán
ngo và thổ sản của họ. Ánh lửa khơi động một ấm áp thổi Đà Lạt hun hút vào ký ức.
Đâu rồi, đâu rồi cái khí hiu hắt lạnh thơ mộng ấy? Đà Lạt như cô gái thức dậy,
cắt phăng mớ tóc dài mơ, mặc quần jean áo thun nhún nhẩy vào nhịp dồn dập sống
còn của khúc ca hiện đại. Thúy Anh nói, chắc dưới kia là chợ Âm Phủ.
Khiêm cười, lúc nhúc ồn như kia chỉ có chợ dương phủ thôi em, quả thật
là tôi cũng không đủ can đảm để bước xuống những bậc thang đi tìm chợ âm phủ
trong biển người dương thế kia, cho dù rất nhớ ly sữa đậu phộng bên hông chợ.
Quỳnh thì sau đó nhất định phải đến “quán chè khép một bên cửa”, không biết
nghe ở đâu, cửa quán chỉ mở già nửa, không phải để ngăn ngừa cái huyên náo bên
ngoài mà là nhét vào những lộn xộn nhất có thể của một quán chè đêm…Tôi cùng
các em vội vã ăn và vội vã quay về.
Thế là không sữa đậu nành nóng, không
hạt dẻ ấm trong túi áo, và tiếc thay tôi cũng không có kỷ niệm nhiều với Đà Lạt
để đưa mình vào Đà Lạt sang trọng trầm lặng ngày cũ. Cứ thế mà phơi mình giữa một
không khí Đà Lạt bị cày xới thô bạo bởi những mỹ quan kiểu mới. Muốn nhắn nhủ với
những ai yêu Đà Lạt, có về hãy trang bị cho đủ đầy nỗi nhớ và chiếc áo giáp của
kỷ niệm để chống đỡ với những bất ngờ của Đà Lạt.
Ngày về lại Sài Gòn, khi đi qua đèo
gió Bảo Lộc, tự nhiên nhớ lời dặn dò cột tóc của nhạc sĩ họ Trịnh với hồng nhan
tri kỷ…Trong tôi không có một lời hẹn nào để trở lại Đà Lạt. Coi như vẫn còn
đó, một giấc mơ dang dở.
Một đêm, tôi
nói, mai mẹ về lại Mỹ rồi (nhớ hôm ở Mỹ, cũng nói với Bảo Chương, mai mẹ về Sài Gòn rồi,
hai nơi đều là về cả, là sao), Khánh Chương ôm vai, ngập ngừng, bây giờ cho
mẹ bịnh đi, cũng được để mẹ ở lại thêm nữa nhen mẹ… Hạnh nói, con trai
nhớ mẹ rồi đấy mẹ ơi. Như đêm đang ngừng trôi, phải không, những giọt đêm
khẽ khàng ru tôi từng nhịp ấm của hạt lệ.
A, tôi biết rồi tôi đã lần theo nhịp
đập trái tim hai đứa con yêu dấu này để về. Về đây, và đang nằm ngủ nơi góc phòng cha đã ngủ năm
nào. Nghe dòng sông thế hệ nhịp nhàng từ ba mẹ tôi đến tôi, rồi các con tôi, và
kia bùng reo, cô cháu nhỏ. Trôi đi, dịu dàng.
Hôm rời Sài Gòn, đang kéo hành lý ra
cổng, chị Liên nhắc, thắp nhang ba chưa? Tôi vội lên lầu, là để cho chị
vui thôi, chứ ngày nào tôi chẳng lên nhìn và nói gì đó với cha. Nhưng cha đâu
riêng ở đây, nơi nào mà trái tim các con ông còn đập, thì ông ở đó.
Và Sài Gòn, mãi mãi là một hơi thở, của
tôi. Những kỷ niệm thuộc về Sài Gòn như một tấm khiên che chắn cho tôi bớt hụt
hẫng về tốc độ những đổi thay, hóa ra tôi chẳng phút giây nào nhìn thành phố
này bằng con mắt xác phàm, chẳng thấy gì cả ngoài một Sài Gòn đầm đìa kỷ niệm.
A, tôi lần theo hoa rụng tuổi thanh
xuân mộng ảo mà về đấy thôi.
Tới đây thì bạn
biết cái một nơi để quay về của tôi rồi, đúng không, những sợi tơ ấy chỉ có một mối... bạn ơi.
Có một chỗ ở Sài Gòn bây giờ tôi bước
đi không bằng ký ức, đó là con đường bờ kè kênh Nhiêu Lộc. Tôi bước dọc theo
con đường mới mẻ, cái nhìn mở ra vui như nắng đang xiên qua những hàng liễu rủ,
gió thổi thốc tới từ phía ngôi chùa xa cạnh Viện Đại Học Vạn Hạnh xưa làm tóc
tôi bay, tôi không thể tưởng là mình đang đứng bên dòng kênh khẳm đen nhếch
nhác khi xưa.
...có lẽ lần sau Khánh về thì nước kênh sẽ trong.
Giọng anh tôi nhỏ nhưng có vẻ như anh
đang nói về một công trình của mình. Điều ấy làm tôi vui.
Tôi đang nghĩ đến chuyện cổ tích, soi
xuống dòng trong để tỏ mặt mày… tất cả sẽ đổi thay như kênh Nhiêu Lộc này, những
vẩn đục sẽ lắng xuống để dòng trong
...Nhớ nói cho em biết khi nước
kênh Nhiêu Lộc trong nhé, anh Khải.
Vậy là tôi có một lời hẹn với Sài Gòn
rồi.
Và, nếu có, thì tôi cũng sẽ về vào
mùa mưa tháng 9 để tiếng mưa trả lại cho tôi những lời tình tự, thêm một lần nữa
sống với giấc mơ.
Nguyễn Thị Khánh Minh
Santa Ana,