THÂN TRỌNG SƠN
ÉDITH PIAF,
tiếng ca huyền thoại
tiếng ca huyền thoại
của con chim sẻ nhỏ
ÉDITH PIAF (1915-1963)
Dưới bầu trời Paris (1)
Dưới
bầu trời Paris, ngày 19 tháng 12 năm 1915 đã ra
đời bé gái Édith
Giovanna Gassion. Giấy
khai sinh chính thức
ghi nơi sinh là bệnh
viện Tenon, quận 20, Paris, nhưng nhiều người lại truyền nhau là Édith sinh ra trên lề đường, trước nhà số 72 đường Belleville, thuộc Ménilmontant, một khu phố bình dân cũng ở quận 20. Có lẽ chỉ vì chi tiết này phù hợp hơn với những gì liên quan tới cuộc đời của người sẽ trở thành huyền thoại của nền ca nhạc Pháp : gia cảnh tầm thường, tuổi thơ u ám, sức khỏe mong manh, tình duyên lận đận, sự nghiệp gập ghềnh, tuổi thọ ngắn ngủi.
Bố là
nghệ sĩ
xiếc uốn dẻo, mẹ là ca sĩ đường phố, sinh con trong thời kỳ chiến tranh, đặt tên con là Édith để tưởng nhớ nữ y tá người Anh là Edith Cavell được xem như là anh hùng sau khi bị quân Ðức xử bắn vì tội đã cứu cả trăm binh lính đồng minh trong Thế chiến thứ nhất. Bố nhập ngũ, mẹthiếu điều kiện chăm sóc con nên giao Édith cho bà ngoại, một phụ nữ nát rượu nhận nuôi cháu trong một điều kiện không thể tồi tệ hơn : bỏ bê trong đói khát và dơ bẩn trong một căn phòng thiếu cả phương tiện vệ sinh. Édith sống trong tình trạng này trong 18 tháng mới được bố “giải thoát ” để được đem về gởi cho bà nội ở Bernay, thuộc vùng Normandie, miền Bắc nước Pháp. Thật trớ trêu, bà nội là một chủ nhà chứa. Chính các cô gái làng chơi ở đây yêu thương và chăm sóc bé Édith giúp
em dần
dần khôi phục sức khỏe. Năm 7 tuổi, Édith bị mù tạm thời do giác mạc bị tổn thương ( kératite ). Với hy vọng chữa khỏi cho em, các cô gái giàu lòng nhân ái
này đưa em đến
cầu nguyện trước mộ của Thérèse Martin ở Lisieux (2) và thực sự sau đó phép mầu đã giúp em lành bệnh.
Đại
chiến kết thúc, bố Édith giải ngũ trở về tiếp tục nghề xiếc rong ngoài đường phố. Édith theo giúp bố và, ngoài việc ngửa nón xin tiền, bắt đầu thử nghiệm giọng ca của mình bằng các bài hát bình dân trình diễn trước đám đông. Dần dần Édith được người nghe tán thưởng và kiếm được tiền nhiều hơn cả bố. Chẳng bao lâu sau Édith tách khỏi bố để bay nhảy tự do bằng đôi cánh của mình.
Tháng 2 năm 1933, Édith
17 tuổi
có cuộc
tình đầu đời với chàng trai trẻ làm nghề giao hàng Louis Dupont, sinh cho anh
ta đứa
con gái là Marcelle, 2 năm sau cháu bé qua đời vì bệnh viêm màng não và người tình cũng bỏ đi.
Édith tiếp
tục lang thang ca hát
trên các khu phố Belleville
(3) và Pigalle (4) . Chất giọng
đặc
biệt của Édith đã được Louis Leplée, chủ một phòng trà ca nhạc sang trọng ở Paris
chú ý. Đây là phòng trà Gerny’s, nằm trên đại lộ Champs-Élysées. Louis Leplée nhận ngay ra rằng giọng ca tuyệt vời này không phải để hát trên đường phố mà phải là dưới ánh đèn màu, đưa Édith về hát tại phòng trà của mình.
Ông đặt
cho Édith nghệ danh
“la Môme Piaf ” ( môme là cô bé, piaf, tiếng lóng, nghĩa là con chim sẻ ), cái tên gợi lên vóc dáng mảnh khảnh, nhỏ bé của Édith vốn chỉ cao 1,47m. Ông cũng yêu cầu Édith mặc toàn đồ đen khi lên hát và đây sẽ là hình ảnh độc đáo sẽ theo Édith suốt cuộc đời ca hát của mình. Con mắt tinh đời của Leplée đã không phụ ông : giọng ca của con chim sẻ nhỏ đã chinh phục được khách của Gerny’s. Chẳng mấy chốc cả Paris đổ xô về đấy để tán thưởng một tài năng vừa mới được khám phá. Trên đà thành công của Édith, ông Leplée quyết định giúp cô thu âm đĩa 70 vòng đầu tiên vào năm 1936.
Đời màu hồng(5)
Một
sự việc bất ngờ xảy đến, sự nghiệp của Édith vừa lóe sáng đã tắt ngấm : tháng 4 năm đó, Louis Leplée bị giết tại nhà riêng, Édith bị nghi là có dính líu, cảnh sát thẩm vấn, báo chí công kích. Édith phải từ bỏ Gerny’s và có nguy cơ trở lại với đường phố.
Trong lúc khó khăn này, một
người bạn của Édith là nhạc sĩ Raymond Asso đã giúp cô tìm chỗ trình diễn và nhất là rèn luyện kỹ năng ca hát để trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. Năm 1937 Édith được nhận vào nhà hát ABC (6) và ngay
lập tức tỏa sáng ở đây.
Raymond Asso đề nghị cô đổi nghệ danh thành Édith Piaf , đây sẽ là cái tên mà cô sử dụng suốt đời. Sau thành công ở ABC, Édith còn biểu diễn ở nhà hát Bobino (7), tham
gia đóng kịch
( vở Le
Bel Indifférent -1940 – do Jean Cocteau viết cho chính cô ) , đóng phim (
Montmartre-sur-Seine -1941- của đạo diễn Georges Lacombe ). Cả kịch và phim này ( Édith diễn chung với Paul Meurisse ) đều thành công, chứng tỏ tài năng của Édith trong lĩnh vực
diễn
xuất.
Đến tuổi 30, Édith Piaf đã vững vàng trong sự nghiệp nhưng không quên bước khởi đầu gian nan của mình nên nghĩ tới việc giúp đỡ những nghệ sĩ trẻ mới vào nghề. Mùa hè 1944, Édith gặp Yves Montand (8) lúc này
chưa nổi
tiếng, chỉ làm nhiệm vụ hát mở màn(9)
cho những tiết mục của cô ở cabaret Moulin Rouge. Tiếng sét ái tình khiến cô chăm sóc đặc biệt cho Yves, hướng dẫn, giúp đỡ mọi mặt. Cô đề nghị Henri Cortet, nhạc sĩ chuyên viết cho cô hát, sáng tác nhiều bài riêng cho Yves ( “Battling Joe” ,
“ Luna park” ). Và chính Édith cũng viết
dành riêng cho Yves nhạc
phẩm Đời màu hồng (1945
) , bây giờ trở thành bài ca bất tử.
Khi chàng ôm em
trong vòng tay
Khi chàng âu yếm thì thầm bên tai
Là khi em thấy đời hồng tươi !
Cả hai
còn cùng nhau đóng phim Ngôi sao không ánh sáng ( Étoile sans lumière )
của đạo diễn Marcel Blistère. Nhưng mối tình nghệ sĩ này không bền lâu, đầu năm 1946 hai người chia tay nhau. Sau này Yves kết hôn với diễn viên Simone Signoret còn Édith bay
nhảy với nhiều cuộc tình khác.
Cũng thời gian
này, Édith có dịp
làm quen với
nhóm ca sĩ trẻ Les
Compagnons de la chanson (10) (
Những người bạn của ca khúc ) chuyên trình diễn những giai điểu cổ có âm hưởng dân ca. Édith khích lệ nhóm chuyển sang loại nhạc trẻ trung hơn, đề nghị ghi âm chung bài Les trois cloches
( Ba quả chuông
) của nhạc sĩ Thụy Sĩ Jean Villard. Thành công vang dội rất bất ngờ :
bán được
cả triệu dĩa. Édith quyết định đưa nhóm cùng sang Mỹ trong chuyến lưu diễn đầu tiên vào năm 1947. Chuyến đi này là một dấu mốc mới trong cuộc đời ái tình và sự nghiệp của Édith Piaf.
Bài
tụng
ca Tình yêu (11)
Không có gì hứa
hẹn cho con chim sẻ thành Paris trên đất khách, những buổi trình diễn đầu tiên của cô trong các phòng trà ca nhạc ở New York chưa được khán giả chú ý mấy. Định quay trở về châu Âu thì tình cờ cô đọc được một bài phê bình với lời lẽ khích lệ đặc biệt trên một nhật báo lớn ở đây khiến cô đổi ý. Cô ký hợp đồng hát một tuần cho Café Versailles, một phòng trà khá nổi tiếng ở Manhattan (12) . Chính nơi đây
Édith mới được khán giả Mỹ hâm mộ nên tiếp tục cộng tác đến 4 tháng và sau này còn trở lại nhiều lần.
Thời
gian này, Édith lao vào một
cuộc tình lớn : cô gặp và yêu say đắm Marcel Cerdan, một võ sĩ quyền Anh vô địch thế giới. Tuy Marcel đã có vợ và
tuy hai người
hoạt động trong hai lĩnh vực khác hẳn nhau, cuộc
tình giữa “
ông vua đánh bốc
và bà hoàng ca nhạc”
vẫn được báo chí xem là cuộc tình lãng mạn nổi tiếng nhất thế kỷ. Định mệnh lại giễu cợt Édith. Chỉ một năm sau, Marcel thiệt mạng trong một tai nạn máy bay khi đi từ Paris sang New York thăm người tình. Tinh thần suy sụp, lại bị hành hạ bởi những cơn đau của chứng bệnh viêm đa khớp ( polyarthrite ), Édith phải sử dụng mooc-phin với liều cao. Cuộc tình này đã để lại nhạc phẩm Édith viết cho anh Bài Tụng ca Tình yêu,
một trong những bài ca sẽ đi cùng năm tháng với tên tuổi của tác giả.
… Em sẽ đi đến tận cùng trái đất
Em sẽ nhuộm cho tóc vàng đi
Nếu
anh muốn ở em điều đó
Em sẽ hái cả mặt trăng
Em sẽ lấy về bao tài sản
Nếu
anh muốn ở em điều đó
Em sẽ chối bỏ cả tổ quốc
Em sẽ từ bỏ cả bạn bè
Nếu
anh muốn ở em điều đó …
Nỗi đau
vì sự mất mát quá lớn này khó thể nguôi ngoai nhưng Édith vẫn cố gắng tiếp tục làm việc. Năm 1950, cô lại bước ra sân khấu của thính phòng Pleyel (13).
Cô kết
thân với
Charles Aznavour ( ca sĩ, nhạc
sĩ, diễn
viên trẻ )
qua những
mối quan hệ đặc biệt mà không phải là tình nhân : thư ký, tài xế , bạn tâm sự. Ngược lại, Charles Aznavour cũng viết cho cô một số bài khá thành công ( Jezebel, Plus
bleu que tes yeux…)
Năm 1951, Édith thân mật với Eddie Constantine (14),
ca sĩ diễn
viên , cùng diễn
vở nhạc kịch “ La p’tite Lili “ tại
nhà hát ABC. Bảy
tháng sau, thôi diễn
vở này,
hai người
cũng thôi nhau. Năm này, Édith bị hai
tai nạn
xe hơi, lần
sau rất
nặng, lại phải điều trị bằng mooc-phin, sự phụ thuộc vào chất gây nghiện này làm sức khỏe cô ngày càng tồi tệ.
Tháng 7 năm 1952 Édith gặp và làm đám cưới với ca sĩ Jacques Pills, cuộc hôn nhân chỉ kéo dài được bốn năm.
Kể từ giai đoạn này, Édith phải thường xuyên điều trị giải độc nhằm hạn chế tác hại của mooc-phin và rượu. Trong hai năm liền cô thu mình âm thầm không xuất hiện, chỉ chuyên chú việc ghi âm. Tuy nhiên, sang năm 1955,
khi biết
mình sẽ hát
ở Olympia(15),
nhà hát sang trọng
và nổi
tiếng nhất Paris , cô hoàn toàn tự tin, phấn khởi, nhiệt tình trở lại với công việc mặc dù sức khỏe vẫn tồi tệ. Ngay trong buổi trình diễn đầu tiên ở đây, cô đã thành công rực rỡ, khán giả chọn lọc của thủ đô Paris hoàn toàn bị chinh phục bởi hình ảnh độc đáo mang thương hiệu Édith Piaf : một
thân hình bé nhỏ với trang phục toàn màu đen,một giọng hát mạnh mẽ, ngân vang cất lên từ lồng ngực, một lối trình diễn lột tả trung thực tất cả lời ca ý nhạc. Cũng trong năm này Édith lại sang Mỹ thực hiện một chuyến lưu diễn dài ngày và kết thúc bằng chương trình độc diễn 22 bài trên sân khấu thính phòng Carnegie Hall (16)
tại New York. Tất nhiên là cũng thành công vang dội, Édith Piaf trở thành ngôi sao quốc tế, chói sáng trên bầu trời ca nhạc Paris, New York và một số nước Nam Mỹ.
Cuộc
phiêu lưu tình ái dõi theo chiếc
bóng hạnh
phúc của Édith
vẫn chưa kết thúc. Năm 1958, cô bắt đầu mối quan hệ tình cảm với ca sĩ trẻ Georges Moustaki, đỡ đầu cho anh và dần dà một cuộc tình sóng gió nữa bắt đầu. Cùng với Marguerite Monnot, Moustaki viết cho cô nhạc phẩm Milord, đây là một trong những bài thành công nhất của Édith. Tháng chín hai người gặp một tai nạn xe hơi nghiêm trọng, sức khỏe Édith tổn thương nặng nề.
Édith vẫn
cố gượng dậy. Đầu năm sau khi đang hát ở New York, cô gục ngã trên sân khấu phải giải phẫu khẩn cấp trước khi trở về Paris trong tình trạng thảm thương. Moustaki bỏ đi.
Không,
tôi không hối
tiếc điều gì. (17)
Năm 1961, Édith bắt đầu một loạt biểu diễn tại nhà hát Olympia Paris mặc những lời can ngăn của bác sĩ và người thân lo ngại cho sức khỏe của cô, chỉ vì lời hứa với giám đốc nhà hát, cô hát để cứu cơ sở này đang lâm vào tình trạng hầu như phá sản. Dịp này Édith đã rút hết gan ruột để diễn tả nỗi lòng mình qua nhạc phẩm Không, tôi không hối tiếc điều gì mà
nhạc sĩ trẻ Charles Dumont viết riêng cho cô.
Không, không gì cả
Tôi không hối tiếc điều gì
Cả điều tốt điều xấu thiên hạ làm cho tôi
Cái gì tôi cũng mặc…
Đã trả xong, đã quét sạch, đã quên hết
Tôi chẳng cần quá khứ
Với
các kỷ niệm
Tôi châm lửa
Những
nỗi đau,
niềm
vui
Tôi không cần chúng nữa
Phủi
sạch
những
cuộc
tình
Với
những
rung động
líu lo
Phủi
sạch
vĩnh viễn
Tôi lại khởi đầu từ số không. (…)
Chân thành, tha thiết, bài ca nghe như lời tâm tình của người ca sĩ tài danh về cuộc đời đầy thăng trầm của mình.
Ngày 25/9/1962, nhân ra mắt cuốn phim Ngày dài nhất (18)
cô
đã hát từ tầng 1 của Tháp Eiffel ( với độ cao 57m ) cho 25 000 khán giả ngưỡng mộ dưới chân mình ngẩng đầu nhìn lên. Bài hát kết thúc trong ánh sáng muôn màu của hàng ngàn pháo hoa rực sáng cả vùng trời
bên bờ sông
Seine.
Một
tháng sau, ở tuổi 47, kiệt sức, bệnh tật, Édith kết hôn với ca sĩ Theophanis Lamboukas mà cô thường gọi là Sarapo có nghĩa là “Em (anh) yêu
anh (em)” theo tiếng
Hy Lạp,
ngôn ngữ của chàng trai kém cô 21 tuổi này. Đây là người đàn ông cuối cùng trong đời Édith. Hai người còn cơ hội trở lại phòng trà Bobino (7) song
ca bài Tình yêu có ích gì ? (19) vào tháng 2 năm 1963. Bài hát
này có thể xem
như tuyên ngôn của Édith
về tình
yêu, giúp ta hiểu
thêm một
khía cạnh
cuộc đời bà, mỗi chặng nhỏ trên con đường sự nghiệp đều gắn liền với một cuộc tình.
… Em vẫn thường hay nghe nói
tình yêu làm ta u sầu
tình yêu làm ta than khóc
tình yêu có ích gì đâu
Tình yêu nó có ích
gì
vừa
cho ta mọi
niềm
vui
lại
còn có cả nước mắt
thật
buồn
mà thật
diệu
kỳ…
ngay khi ta đã mất đi
cuộc
tình ta hằng
ấp ủ
vẫn
còn hương vị ngọt ngào
tình yêu vẫn là bất tử
Thôi thì như em đã hiểu
sống
mà không có tình yêu
với
cả niềm vui nỗi khổ
cuộc
sống
có nghĩa gì đâu…
Nhưng anh, anh là người cuối
nhưng anh, anh là người đầu
trước anh, không có gì cả
với
anh, hạnh
phúc xiết
bao
Có anh là điều em muốn
có anh là điều em cần
anh, người em yêu mãi mãi
tình yêu có ích thế thôi.
Édith rơi vào tình
trạng hôn mê hai tháng
sau. Sarapo đưa Édith về tỉnh dưỡng tại một biệt thự ở Placassier, ngoại ô thành phố Grasse miền Nam nước Pháp để chăm sóc bà cho đến khi bà qua đời ngày 10 tháng 10 năm 1963 tuy nhiên
tin buồn
chỉ công
bố chính
thức vào ngày 11 khi
thi hài được
bí mật
chuyển
về Paris.
Đám
đông
(20)
Ngày 14/10/1963, hàng chục ngàn người đã tiễn đưa nữ danh ca đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang Père Lachaise (21) trong
ngôi mộ của bố cô ( mất năm 1944 ).Đây cũng là nơi an nghỉ của con gái Marcelle (mất năm 1935 ) và người chồng cuối đời Théo Sarapo sau khi qua đời vì tai nạn xe hơi năm 1970.
Nếu
trong cuộc đời có lúc phải chịu cảnh cô đơn thì sau khi giã từ cõi tạm lúc nào Édith Piaf cũng thấy ấm cúng giữa đám đông người hâm mộ.
Mãi tận
hôm nay mộ Édith
ngày nào cũng phủ đầy hoa tươi của đông đảo khách viếng từ khắp nơi trên thế giới. Đông đảo tín đồ âm nhạc vẫn đến quảng trường mang tên Édith Piaf, nằm ở góc các đường Belgrand, Capitaine Ferber, và la
Py, gần
bệnh viện Tenon nơi bà chào đời để tưởng niệm trước bức tượng của bà, được thị trưởng Paris Bertrand Delanoë cho dựng lên vào ngày 11/10/1963 nhân kỷ niệm 40 năm ngày mất của ngôi sao này. Đông đảo người quan tâm đến sự nghiệp và cuộc đời của bà vẫn đến thăm bảo tàng Édith Piaf ở số 5 đường Cresoin du Gast, quận 11 Paris, nơi trưng bày đầy đủ những kỷ vật lưu niệm.
Nhiều
tác phẩm
kịch nghệ và điện ảnh đã được thực hiện để vinh danh cuộc đời ( vở kịch “Piaf je t’aime” năm 1996 )
và những
tác phẩm để đời của Édith Piaf, trong đó không thể không nhắc tới bài hát La vie en rose. Cho đến nay không ít hơn 30 nghệ sĩ lừng danh thế giới đã từng thể hiện ca khúc này : Patricia Kass, Yves
Montand (Pháp), Marlene Dietrich ( Đức
), Placido Domingo ( Tây Ban Nha ), Dean Martin, Ella Fitzgerald,
LouisArmstrong, Cyndi Lauper (Mỹ),
Bạch Yến, Ý Lan ( Việt Nam ) … Điều thú vị là có những cuốn phim không liên quan đến tác giả nhưng xem phim khán giả vẫn nghe được giai điệu bất hủ của Đời màu hồng :
Phim Sabrina ( 1995 ) Đạo diễn Sydney Pollack, diễn viên
Harrison Ford, Julia Ormond, Greg Kinnear. Phim French Kiss (1995). Đạo diễn Lawrence Kasdan, diễn viên
Meg Ryan, Kevin Kline, Timothy Hutton.
Phim Something’s Gotta Give (2003 ) Đạo diễn Nancy Meyers, diễn viên
Jack Nicholson, Diane Keaton, Keanu Reeves.
Và, tất
nhiên rồi,
cuốn phim thuật lại đầy đủ và trung thực nhất cuộc đời của Édith Piaf là La Môme của đạo diễn Pháp Olivier Dahan ( tháng 2 năm 2007
). Phát hành ngoài nước
Pháp phim lấy
tên là La vie en rose, do diễn
viên trẻ Marion
Cotillard vào vai Édith Piaf. Với
vai diễn
này, Marion Cotillard đã được
trao giải
Oscar ( 2008, nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.)
Édith Piaf qua đời hơn nửa thế kỷ rồi nhưng tiếng hát của bà vẫn vượt không gian và thời gian, còn ngân mãi trong tim bao thế hệ người yêu nhạc. Hơn thế nữa, cuộc đời của một người sinh ra trong nghèo khốn giữa thời loạn ly, từ cô bé hát rong tiến lên thành ca sĩ phòng trà để cuối cùng trở thành danh ca của các thính phòng, đại hý viện, vẫn mãi là tấm gương về nghị lực phi thường để vượt lên số phận bằng yêu thương và công việc. Édith, người có nghe không, cả thế giới vẫn còn nói mãi Piaf, je t’aime ?
THÂN TRỌNG SƠN
------------------------------------------------------------------
(1)
Sous
le ciel de Paris. Tên
bài hát, lời
Jean Dréjac, nhạc Hubert
Giraud.(1954)
Tất cả những tiểu mục trong bài viết này đều là tên những bài hát Édith Piaf từng thể hiện.
(2)
Thérèse Martin, nữ tu, mất ngày 30/9/1897 ở tuổi 24. Được Giáo Hoàng Pie XI phong thánh ngày
17/5/1925. Thường
được gọi là Thánh Têrêsa thành Lisieux .
Lisieux là một thị trấn trong tỉnh Calvados, thuộc vùng hành chính Basse- Normandie.
(3)
Khu phố Belleville nằm ở quận 19 và 20 của thành phố Paris. Ngày nay, đây là khu vực đa văn hóa, tập trung nhiều dân nhập cư, nhiều nhất là dân châu Á và châu Phi. Đây cũng
là khu phố châu
Á thứ hai
của Paris, sau Chợ Tàu ở quận 13.
(4)
Khu
phố Pigalle
bao gồm
các con phố nằm hai bên đại lộ Clichy và Rochechouart, thuộc Quận 9 và quận 18, ở phía Bắc Paris. Nằm dưới chân đồi Montmartre, đây là nơi tập trung rất nhiều quán bar, quán cà phê, các sex shop.
Khu phố này
còn hấp
dẫn nhờ các cabaret nổi tiếng như Moulin Rouge, Folies Bergère.
(5)
La vie en rose do
chính Édith Piaf sáng tác nhưng phải
đề tên
tác giả phần nhạc là Louiguy vì cô không đủ điều kiện để được công nhận là nhạc sĩ sáng tác theo quy định của SACEM, Hiệp hội các nhà soạn nhạc.
(6) ABC : nhà hát hoạt động từ 1935 tại 11 đại lộ Poissonnière, quận 2, Paris. Rất nổi tiếng nhờ sự góp mặt của nhiều nghệ sĩ và nhóm nhạc tài năng. Đến năm 1965 ABC chuyển thành rạp chiếu phim.
(7) Bobino : nhà hát tạp kỹ ( music-hall) ở khu Montparnasse, quận 14, Paris.
(8)
Yves Montand ( 1921-1991 ), ca sĩ, diễn viên gốc Ý.
(9)
première partie, hát
ở phần đầu chương trình, chuẩn bị cho các tiết mục chính thức.
(10)
Les compagnons de la chanson : nguyên là nhóm
Những người bạn của Âm nhạc ( les compagnons de la musique ), với 9 thành viên hoạt động từ năm 1946 đến 1985 thì giải thể.
(11)
Hymne à l’amour
(1950 ) .Lời Édith
Piaf – Nhạc
: Marguerite Monnot.
(12)
Manhattan : một
trong năm quận
của thành phố New York, ngày nay là khu vực giàu có nhất của Hoa Kỳ.
(13)
Salle Pleyel :
nằm ở đường Faubourg-Saint-Honoré, quận 8, Paris. Hoạt động từ 1927, thực ra dành chủ yếu cho hòa nhạc giao hưởng. Édith Piaf là ca sĩ đầu tiên hát ở đây.
(14)
Eddie Constantine (
1917-1993), người
Mỹ, gốc Nga, sống nhiều năm ở Pháp,hoạt động ca hát vài năm trong thập niên 50 ( tk XX) , sau đó đóng phim.
(15)
Olympia :
28 đại
lộ Capucines,
quận 8, Paris, là nhà hát
tạp kỹ xưa nhất nay còn hoạt động ( khai trương năm 1893). Được công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1993. Hầu như tất cả những danh ca của Pháp đều có lần xuất hiện ở đây : Dalida, Mireille Mathieu, Sylvie
Vartan, Guy Béart, Gilbert Bécaud, Georges Brassens, Jacques Brel, Yves Duteil,
Johnny Hallyday …
(16)
Carnegie Hall :
881 đại
lộ số 7, Manhattan, New York, chính thức mang tên này từ 1893 sau 2 năm khai trương. Đây là thính
phòng dành cho nhạc
cổ điển, Édith Piaf là ca sĩ đầu tiên hát ở đây ( cũng như đã lần đầu tiên hát ở Salle Pleyel Paris năm 1950 – xem chú thích
13 ).
(17)
Non,
je ne regrette rien.(1960).
Nhạc : Charles Dumont.
Lời : Michel
Vaucaire.
(18)
The longest day / Le jour le plus long. Phim của hãng 20th Century Fox, đạo diễn Ken Annakin, Andrew Marton, diễn viên : John Wayne, Robert Mitchum,
Henry Fonda, Richard Burton. Nội
dung phim kể về ngày D-day, ngày mà quân đồng minh đổ bộ vào bờ biển Normandie, trận đánh đưa đến bước ngoặt của Thế chiến thứ hai, đánh dấu sự bắt đầu những thất bại của quân Đức sau này.
(19) À quoi ça sert l’amour? (
1962 ) Lời và nhạc : MichelEmer.
(20)
La
foule. ( 1957 ). Lời :
Michel Rivgauche.Nhạc : Angel Cabral.
(21)
Nghĩa
trang Père Lachaise : nghĩa
trang lớn nhất của Paris, nằm tại quận 20, thành lập từ 1804,
lúc đó chỉ có 13 ngôi mộ, hơn 200 năm qua, bây
giờ đã có hơn 300 000 người được chôn
cất nơi đây trong 69 000 phần mộ.
Trong số những nhân vật nổi tiếng an nghỉ ở
nghĩa trang này có thể kể đến các
văn thi sĩ Molière, La Fontaine, Balzac,
Musset, Paul Éluard, Alphonse Daudet, Apollinaire, nhạc sĩ Chopin, Georges
Bizet...Nghĩa trang Père Lachaise còn được xem
như một công viên với trên 5000 cây xanh
trên một diện tích 44 ha, thu hút hàng trăm ngàn du khách mỗi năm.