Sunday, November 30, 2014

82. MANG VIÊN LONG Hồi ký NHƯ ÁNG MÂY TRÔI (5)




5.

TRƯỞNG THÀNH TRONG CHIẾN TRANH



Giữa năm 1972, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, hai bên giành giật nhau từng tấC đất; cảnh tương tàn thương tâm hằng ngày xảy ra trên mọi vùng miền, không thể nói hết. Trong lúc ấy, Hội nghị ở Paris về chiến tranh Việt Nam đang căng thẳng. Lệnh tổng động viên đã được Đại Tướng Cao Văn Viên - Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH - ban hành khẩn cấp. Theo sắc lệnh này, tất cả các trường hợp hoãn dịch trước đây đều bị gác lại; hoãn dịch chỉ dành cho những sinh viên đang học năm cuối, đang chuẩn bị thi ra trường, nhưng khi thi xong, phải trình diện nhập ngũ ngay.
           
Tôi và một số giáo sư ở trường Trung học Nguyễn Huệ phải ra đi. Sau gần hai tháng lên xuống trình diện ở Trung Tâm 3, chờ sắp xếp khóa học ở Thủ Đức, chúng tôi lần lượt được máy bay chở ra Nha Trang, vào học ở trường huấn luyện hạ sĩ quan Đồng Đế vì Thủ Đức không còn chỗ. Lớp hạ sĩ quan ở Đồng Đế phải dời lên trung tâm huấn luyện Lam Sơn ở Ninh Hòa. Tôi vào trường Đồng Đế, thuộc đại đội 729, tiểu đoàn 3, trước đó đã có 2 tiểu đoàn là sinh viên của các trường đại học đang học các năm thứ 1, 2 và 3 hoặc đã tốt nghiệp, được hoãn dịch vì nhiều lý do.
         
Đang sống trong một môi trường tương đối ổn định với đám  học sinh hồn nhiên, với bằng hữu thâm tình, tôi phải rời bỏ, để bắt đầu làm quen với mọi thứ sinh hoạt bất thường, mọi ám ảnh đau buồn, và một tương lai mờ mịt trong cảnh tương tàn ngày càng thảm khốc đang hiện rõ từng ngày ở đây! Chỉ chưa được một tháng, sau tiểu đoàn của tôi, từng lớp trẻ đã được chở vào Đồng Đế lên đến mười sáu tiểu đoàn, rồi 20, 26 và còn tiếp tục các khóa mới, sau đó… tôi không nhớ hết!
         
Tôi nghĩ, đa số bạn trẻ vào đây cũng có cùng tâm trạng như tôi là không ai thích chiến tranh, không ai muốn rời bỏ cây bút, công việc ổn định, và nhất là phải rời xa những người thân yêu, bạn bè, quê nhà để dấn thân vào chốn đao binh hiểm nguy, tập cầm lựu đạn hay M16 cả! Tuổi trẻ đang bị dồn đuổi vào bước đường cùng, không còn con đường chọn lựa nào khác giữa bao bủa vây, rượt đuổi bằng nhiều cách, của mọi “nhãn hiệu” được sơn phết.
         
Qua hết giai đoạn 1, đang học giai đoạn 2, tôi bị đau nặng, được xe cấp cứu chở vào Quân Y viện Nha Trang. Tại đây, khi tạm thời ngồi dậy, bước ra hành lang được, tôi đã chứng kiến cảnh tiếp nhận thương binh từ các nơi dồn về càng nhiều. Cảnh tang thương ly biệt diễn ra hằng ngày khiến tôi càng phiền muộn và thất vọng. Tôi đã viết bài thơ “Những Dãy Hành Lang Buồn Bã” để bày tỏ sự tuyệt vọng và phản kháng về một cuộc chiến tương tàn đã kéo dài dai dẳng trên đất nước nghèo khó, nhờ người quen ra bưu điện Nha Trang gởi cho tạp chí Bách Khoa. Bài thơ đã được Bách Khoa đăng ngay sau đó nhưng cũng đã làm phiền cho tòa soạn Bách Khoa phải chậm phát hành một tuần khi buộc phải đồng ý “cắt bài thơ ra khỏi tạp chí” theo lời yêu cầu của cơ quan “Phối hợp nghệ thuật” thuộc Bộ VHTT thì báo mới được phát hành.
         
Trong một đêm nằm mê man ở giường bệnh không ai chăm sóc, tôi đã có một giấc mơ “không mong đợi” nhưng vô cùng mầu nhiệm, đã đến đúng lúc để an ủi và tiếp thêm thêm nhiều nghị lực để tôi vượt qua được sự thất vọng cùng cực vào lúc này: người đàn bà choàng khăn trùm đầu mỏng màu xanh, toàn thân một màu áo choàng trắng, đã xuất hiên ngay trên đầu giường tôi, chỉ nhìn tôi mỉm cười. Bà yên lặng nhìn, mà không nói gì. Nụ cười hiền từ, ấm áp, gần gũi đến nỗi tôi tưởng như đã gặp được nhiều lần ở đâu đó. Tôi cảm thấy rất vui mừng, khoan khoái, và vô cùng biết ơn. Tôi chợt tỉnh, mở mắt, và nhận biết ngay, chỉ là giấc mơ. Đồng thời, tôi cũng cảm thấy cổ họng khô khốc, khát nước vô cùng. Trong đêm tối lờ mờ, tôi lần mò đến các giường bên cạnh, tìm chai nước uống. Tôi vớ được một chai - không biết là chai gì, vội mở nút ra uống ừng ực! Tôi đã uống hết chai nước, và trở lại giường nằm cho đến sáng rõ, khi người y tá và bác sĩ trực đang đi đến khám lại cho tôi…
           
Sau hơn mười ngày nằm bệnh viện, tôi trở về trường để tiếp tục qua giai đoạn 2 với nhiều cam go, thử thách đang chờ đợi. Nếu tôi tiếp tục vắng mặt, tôi sẽ phải học lại khóa sau. Người đã thăm hỏi, an ủi tôi đầu tiên khi về đến trường là nhà thơ Duy Năng; anh luôn dành cho tôi những tình cảm ưu ái đặc biệt, trong những ngày tháng ở Đồng Đế. Tôi xem anh như một người anh văn nghệ đáng kính. Và, trong những ngày này,  người - bạn - văn - nhỏ đã từ Saigon bất ngờ đến quân trường thăm tôi vào một buổi sáng Chủ nhật tại khu tiếp tân (khi vừa thi đậu tú tài hai được gia đình thưởng cho chuyến đi Nha Trang thăm người cậu). Gặp nhau chỉ một buổi nhưng niềm an ủi đã ở mãi trong tôi…
         
Ngay hôm tôi trở về trường để tiếp tục học, tối hôm ấy, đại đội được lệnh bầu lại ban đại diện sinh viên, vì ban đại diện cũ không được tín nhiệm của sinh viên, mà chỉ do vị trung úy đại đội trưởng thiên vị chỉ định, đã làm mất lòng tin của anh em trong đại đội.  Tôi được anh em trong đại đội bầu làm đại diện, với người thư ký mới tên Nguyễn Văn Minh - Minh-lùn, hiền từ phụ tá. Tôi không thể nào từ chối bởi đó là quyết định của anh em, cũng là một mệnh lênh mà trong quân trường không thể không chấp hành. Công việc đại diện không có gì quan trọng và nặng nhọc, chỉ nhận và phát hàng quân tiếp vụ cho anh em đúng ngày, đầy đủ là xong. Nếu anh em có đề nghị gì (về quyền lợi), thì chuyển đạt lên cấp trên, hay lúc cần giao tiếp với chủ thầu nhà ăn, giặt áo quần, thì đại diện có mặt. Cái khó nhất là trong “mùa thi” qua giai đoạn, và nhất là thi cuối khóa, phải làm thế nào để đạt điểm cao! Chuyện này thì tôi làm được, nhưng chuyện… ăn thịt chó thì xin thua! Tôi đã từng bị vị trung úy đại đội trưởng mới đến hướng dẫn cho đại đôi khiển trách khi tôi từ chối ngồi vào bàn chung vui với ông ấy và sĩ quan các khoa. Tôi đành ”xin lỗi và nhận khuyết điểm” bởi tôi không thể  ăn thịt con vật mà tôi rất yêu quý!
           
Dù đã là đại diện cho sinh viên của đại đội, tôi cũng từ chối không dọn lên nằm ở phòng riêng với vị trung úy đại trưởng như ban đại diện cũ, mà vẫn nằm ở phòng tập thể với anh em, vì nằm riêng lẻ như vậy tuy yên tĩnh, thoải mái hơn, nhưng phải cách xa anh em, rất buồn! Hằng đêm, và mỗi buổi sáng sớm, khi còn nằm ở giường, tôi đều luôn niệm hồng danh chư Phật, chư Bồ tát mà tôi vẫn thường trì niệm hằng ngày từ thuở nhỏ… Một lần được ra phép Nha Trang vào ngày chủ nhật, tôi đã tìm mua được xâu chuỗi hạt Bồ đề rất đẹp. Tôi thường lấy ra khỏi rương khi đã leo lên giường mỗi đêm, nhưng có một lần vị trung úy đại đội trưởng bước vào lán, bất ngờ thấy được, ông lắc đầu: “Tôi… chán ông quá, hèn chi ông không dám ăn thịt chó!”
           
Nhờ vào sự thay đổi bất ngờ với “chức vụ” ngoài mong đợi nầy, bệnh thấp khớp mãn tính của tôi được giảm dần và có thể “ở nhà” bất cứ lúc nào khi chân hay tay bị sưng nhức, được miễn giảm các món chạy nhảy leo trèo nguy hiểm. Thậm chí, khi đại đội bị “phạt dã chiến”, tôi cũng có thể... được giảm nhẹ. Khi thi, lắp ráp khẩu súng lục trầy trật không được, cũng được… thông cảm! Nghĩa là, tôi luôn được các sĩ quan huấn luyện và cả  hai sĩ quan hướng dẫn đại đội “châm chước”. Và rồi tôi cũng qua được giai đoạn 2.
           
Trong một dịp đại đội được nhà trường đưa về Ninh Hòa công tác một tháng, tôi đã viết được truyện “Dì Lucia” (đăng ở Bách Khoa, số 304, tháng 11 năm 1973),  truyện “ Chiều Trên Sông Đá Bàn” (đăng ở tạp chí Phổ Thông 1973 - chưa tìm lại được báo cũ đã thất lạc sau năm 1975) và truyện “Ngày Của Đời Sống” (tạp chí Phổ Thông số 292 -1973). Nếu truyện “Dì Lucia” viêt về một mối tình lãng đãng nhưng đằm thắm với người nữ tu xinh xắn, nhạy cảm, tại một ngôi nhà thờ ở xã Ninh Đông để giải bày tâm trạng về tình yêu và chiến tranh thì “Chiều Trên Sông Đá Bàn” là chuyên tình thơ mộng với một cô giáo trường làng xã Ninh Giang tên Tạo, nhưng cũng lắm ưu tư, trăn trở của một cuộc tình sớm chia xa thời chiến; còn truyện “Ngày Của Đời Sống” là những ngày tháng thong dong, nhởn nhơ thơ mộng của một cuộc tình, nhưng cũng rất đổi ngậm ngùi, vô vọng… Tư tưởng phản kháng cuộc chiến tương tàn dai dẳng trên quê hương nghèo khổ mà tôi được chứng kiến, luôn là điều tôi mong ước được chia sẻ, được góp phần, trong khả năng và hoàn cảnh rất bất hạnh của mình qua những trang viết, như lời thầm thì tâm sự, sẻ chia mọi ước vọng bên đời cùng bạn đọc!
           
Sau đó không lâu, khi trở lại quân trường, hai tin vui liên tiếp đến với tôi: tập tùy bút “Đóa Hồng Cho Người Yêu” do nhà xuất bản Bông Hồng mua bản quyền trước đó (có nhà thơ Phan Việt Thủy cùng đi - hai anh em đã lai rai cho hết khoản tiền nhuận bút “không mong đợi” vừa nhận nầy) - đã in xong,  và gởi sách ra tặng. Tập truyện ngắn “Có Những Mùa Trăng”  do nhà xuất bản tạp chí Văn ấn hành, cũng đang có bày bán ở các kiosque sách trong quân trường. Trong lúc chưa có sách tặng trong tay, tôi đã mua mấy cuốn “Có Những Mùa Trăng” gởi tặng cho vài người bạn thân thiết ở đây, làm kỷ niệm…
         
Sau ngày mãn khóa, ra trường,  những giáo sư đã tốt nghiệp đều được trả về cho Bộ Giáo Dục, đương nhiên được Bộ trả về lại nhiệm sở cũ của mình trước đó. Những bạn trẻ cùng khóa, mỗi người đi tản mát một phương. Những ngày cuối cùng ở quân trường, là những ngày chia tay ngậm ngùi, bởi tất cả đều hiểu rằng  trong chiến tranh, ngày mai, không ai có thể biết trước được…Tôi đem chia lại những vật dụng riêng mang theo, hay được cấp phát khi vào trường cho vài người bạn trong đại đội - tôi nhớ trong đó, có chiếc khăn len dài quấn cổ đã gởi cho người bạn “lầm lì” nhất đại đội tên Lập. Không biết bây giờ anh ra sao.
       
Tôi về lại trường cũ dạy không lâu, thì nhận được hai bưu phiếu của tạp chí, cơ sở xuất bản Văn - Tân Văn,  gởi trả nhuận bút cho tập sách “Có Những Mùa Trăng”- mỗi bưu phiếu mười ngàn đồng. Hai mươi ngàn đồng lúc ấy  tương đương gần hai lượng vàng! Lần đầu tiên nhận được khoản nhuận bút tương đối lớn, tôi rất vui. Và đã gởi một nửa chia sẻ niềm vui cho những đứa cháu con anh Nguyên đang ở Nha Trang. Còn lại một nửa, tôi đã mua chiếc máy chữ mới hiệu Brother Deluxe của Nhật ở hiệu sách Vạn Kim với giá bảy ngản năm trăm đồng. Chiếc máy cũ Olympia được “chuyển nhượng” cho nhà thơ Đỗ Chu Thăng với giá hữu nghị…
       
Nhớ lại, từ giấc mơ đêm nằm ở Quân y viện Nha Trang cho đến ngày được ra khỏi quân trường Đồng Đế, rồi được trả về Bộ Giáo Dục, trở lại nhiệm sở cũ ngay sau đó; tôi đã gặp nhiều thuận duyên, mầu nhiệm và bất ngờ!  Đã nhận được bao tình cảm sẻ chia hết lòng của bạn bè, của bạn đọc… Tôi thầm nghĩ, có lẽ, đời tôi không sẽ không còn cô độc và bất hạnh như xưa nữa…

(Còn nữa…)