NGÔ THẾ VINH
NHỚ VỀ NGƯỜI BẠN TẤM CÁM
NGHIÊU ĐỀ 1939 – 1998
Bài viết chỉ là hồi tưởng với những kỷ niệm
rất riêng tư về một người bạn tấm cám Nghiêu Đề, với mối giao
tình hơn nửa thế kỷ; người viết không ở trong giới hội hoạ
nên cũng không dễ dàng để viết một hoạ sĩ tài hoa, sáng tác tuyít nhưng đã để
lại dấu ấn lâu dài trong lãnh vực nghệ thuật tạo hình của Việt Nam, qua một
giai đoạn đầy sáng tạo trong những năm 1960-1970 với Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam mà
Nghiêu Đề là một trong những thành viên sáng lậpvớicá tính nổi bật. Ngô Thế Vinh
Tiểu sử Nghiêu Đề
Nghiêu Đề tên thật Nguyễn Tiếp nhưng Trai là
tên gọi ở nhà,sinh năm 1939 tại Quảng Ngãi. Là con trai trưởng trong một
gia đình 6 anh chị em. Học Cao đẳng Mỹ thuật Gia Ðịnh nhưng đã tự rời trường ốc
trước khi tốt nghiệp; là một trong những sáng lập viên Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam;
Huy chương bạc Hội họa mùa Xuân 1961, từng tham dự triển lãm tại nhiều quốc
gia. Ngoài hội họa, Nghiêu Ðề còn viết văn, làm thơ mà sau này Nghiêu Đề coi
như hai “bước lỡ” không nên dấn thân vào. Tác phẩm đã xuất bản: Ngọn Tóc Trăm
Năm (Sài Gòn 1965 ). Nghiêu Ðề cùng gia đình đến Hoa Kỳ năm 1985 và mất vào
ngày 09 tháng 11 năm 1998 tại San Diego, California khi chưa tới tuổi 60.
Vào tháng 8 năm nay, 2014 khi Trịnh Cung còn ở
Mỹ, tôi gợi ý anh nên có một bài viết về “cố tri” Nghiêu Đề. Trịnh Cung đồng
ý là sẽ có bài viết vào tháng 11, nhân ngày giỗ thứ 16 của Nghiêu Đề. Nhưng rồi
đến tháng 11, chỉ có đôi dòng giới thiệu ngắn trên Da Màu và hai bức tranh
trích từ cuốn Nghiêu Đề của Viet Art Society, Trịnh Cung cho biết không đủ tư
liệu nên đành botay.com.
Tôi đã không ngạc nhiên về
“khoảng trống” Nghiêu Đề, một người bạn mà hình như suốt đời không ham muốn sở
hữu một điều gì. Sự nghiệp của anh chỉ là những dấuchân chim trên cát mau chóng
bị xoá nhoà bởi lớp sóng thời gian. Anh không có đức tính của một người rất sớm
bền bỉ vun đắp và tích luỹ cho sự nghiệp của mình. Điển hình cho đức tính ấy là
bạn anh, hoạ sĩ Đinh Cường, anh ấy có cả một kho tư liệu như một viện bảo tàng
cá nhân mà ít ai có thể sánh kịp.
Với bài viết này, nói theo
hoạ sĩ Khánh Trường thì tôi chỉ như một người chuộng “cố sự” đanglàm công
việc góp nhặt cát đá, tìm lại thời gian đã mất với người bạn tấm cám Nghiêu Đề.
Nghiêu Đề và những người
bạn
Bước vào năm đầu y khoa,
thay vì như các bạn đồng khoá tập trung vào học tập, tôi đã không được gương
mẫu như vậy, sớm say mê chuyện viết lách làm báo và cả rong chơi với giới
nghệ sĩ nhóm bạn Nghiêu Đề. Rất khác nhau nhưng không hiểu sao tôi và Nghiêu
Đề lại có thể thân nhau đến như vậy. Nghiêu Đề có nếp sống lang bạt, có nhiều
bạn tấm cám từ thời còn rất trẻ, xóm Bùi Viện gần ngã tư quốc tế là khu
giang hồ nơi chúng tôi thường lui tới lúc đó, họ tiềm ẩn tài năng nhưng
còn như những “viên ngọc ẩn thạch”, giới hội hoạ như Nguyễn Trung, Cù Nguyễn,
Lâm Triết, Nguyên Khai; nhóm thơ văn Trần Dạ Từ, Nguyễn Đức Sơn/ Sao Trên Rừng,
Trần Tuấn Kiệt, Trần Đức Uyển/ Tú Kếu, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Nguyễn Thuỵ Long,
mỗi người một vẻ với khao khát nghệ thuật là mẫu số chung mà họ hướng tới. Sức
sáng tác của họ mạnh mẽ, sớm có tác phẩm và họ đều trở thành những tên tuổi.
Nghiêu Đề còn có cả những người bạn vong niên mà tôi được biết từ toà soạn Bách
Khoa như Lê Ngộ Châu, Nguyễn Ngu í, Võ Phiến, Vũ Hạnh…
Tiếng Hót của Chim Nguyệt
Trả lời nhà báo Nguiễn Ngu í trên Tạp chí Bách Khoa số 137
ngày 15-9-1962, Nghiêu Đề kể chuyện như người đi trên mây:
“... Ở quê tôi, có một giống
chim lạ, sắc trắng, và dáng mong manh lắm, thường bay một mình trong đêm trăng.
Người ta bảo rằng nó bay mãi lên cao, và tan vào mặt trăng, không bao giờ trở
lại. Tên nó là ‘Nguyệt’ Tiếng hót hay vô cùng. Không biết vì sao tôi iêu nó.
Chỉ biết mỗi lần nó bay ngang cùng tiếng hót đã làm tôi xúc động. Bây giờ tôi
nghĩ Nghệ Thuật tôi muốn là một cái gì hết sức tự nhiên như tiếng hót của chim
Nguyệt vậy.”
Nghiêu Đề 16 tuổi trước Thương xá Tax, người
xưa cảnh cũ đều không còn
Từ giữa sang phải: Nguiễn Ngu í và Nghiêu Đề
Từ giữa sang phải: Nguiễn Ngu í và Nghiêu Đề
Khi hỏi nhà thơ Luân Hoán
và những người bạn cùng quê xứ Quảng với Nghiêu Đề, thì cũng chưa ai thấy hay
được nghe tiếng hót của chim Nguyệt. Nhưng đâu có hề gì, vẫn có đó con chim
Nguyệt sắc trắng dáng mong manh bay một mình trong đêm trăng, cũng như mãi mãi
có đó một Chú Cuội ngồi gốc cây đa trên Cung Hằng. Chim Nguyệt thì vẫn cứ bay mãi
lên cao, và tan vào mặt trăng, không bao giờ trở lại… phải chăng đó chính là
thế-giới-thanh-thoát và cũng là giấc mộng trăm năm của Nghiêu Đề.
Một nhà in Trường Sơn
Trước những năm 1960, kỹ
thuật in ấn ở Miền Nam chủ yếu là Typo. Những trang sách báo thời ấy được sắp
từ các bát chữ với từng con chữ đúc chì. Thợ Typo thường là gốc Hoa Chợ Lớn
không rành tiếng Việt nhưng tốc độ sắp chữ thì nhanh đến dễ nể. Thời kỳ đó, kỹ
thuật offset còn hiếm, cơ sở tư nhân có Cliché Dầu, nơi tôi và Nghiêu Đề thường
tới đặt các bản kẽm cho bìa sách báo hoặc các tranh phụ bản. Phạm Ngũ Lão vẫn
được coi như con đường báo chí của Sài Gòn nhưng nhà in Trường Sơn của nhà văn
Nguyễn Thị Vinh lại nằm trên đường Nguyễn An Ninh, gồm hai giàn máy Typo khổ
lớn một trang báo, không kể mấy chiếc máy in nhỏ cả máy pedal / đạp chân. Báo
sinh viên Tình Thương của Y Khoa, báo Đất Sống của Dược Khoa cùng với báo Văn
Học của Dương Kiền đều được in ở nhà in này. Nghiêu Đề và tôi thường có dịp gặp
nhau nơi nhà in này, nhất là khi có mẫu bìa báo Xuân được Nghiêu Đề trình bày.
Nghiêu Đề và mẫu bìa sách
Nhà văn Võ Phiến đặc biệt
rất quý Nghiêu Đề. Một giai thoại về cuốn Giã Từ: Võ Phiến nhờ Nghiêu Đề vẽ bìa
sách; thời kỳ đó các mẫu chữ đẹp để làm bìa rất hiếm, đôi khi phải tìm trong
mấy tờ báo Mỹ mua được nơi các Kiosksách báo trên vỉa hè đường Lê Lợi và sau đó
là cắt dán từng mẫu tự và thêm dấu. Do chỉ quan tâm tới một mẫu bìa đẹp, nên
Nghiêu Đề quyết định “không thêm râu ria” không bỏ dấu trên nhan sách và cũng
để mở ra cho độc giả “tuỳ nghi” với bao nhiêu cách đọc: Gia Tư, Giả Tu, Giả Tù,
Giã Tự… Sách do Thời Mới xuất bản, sau đó Nghiêu đề được Võ Phiến tặng cho một
ấn bản đặc biệt với lời đề tặng thật trân trọng: “là cuốn sách ưng ý nhất về
hình thức của tác giả.”
Ai có sách hoặc tập san
sắp xuất bản cũng muốn được Nghiêu Đề vẽ bìa. Anh chưa hề nói không với ai,
nhưng bao giờ thì có được mẫu bìa đem in là vấn đề hoàn toàn khác. Nhà thơ Luân Hoán viết:“Anh hết lòng với bạn bè, thường không từ chối những việc làm có
liên quan đến nghệ thuật. Nhưng để anh hoàn tất nhanh chóng một mẫu bìa không
phải là chuyện dễ dàng. Với phong thái làm việc thong dong, tùy hứng, Nghiêu Đề
không muốn bị ràng buộc, thúc dục.” Bìa báo
Xuân cho Tạp chí Bách Khoa của anh chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, hay cho Nguyệt san
Tình Thương của Sinh viên Y khoa cũng đều kinh qua những chờ đợi và cả đôi lúc
lỡ hẹn.
Mấy mẫu bìa của Nghiêu Đề: Mây Bão
(1963,1993), Bóng Đêm (1964),
Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng: tranh
Nghiêu Đề,
mẫu bìa Khánh Trường (2000)
Riêng 4 cuốn sách của tôi: Mây Bão (1963), Bóng Đêm (1964), Gió
Mùa (1975), và Vòng Đai Xanh (1971) đều được người bạn tấm cám Nghiêu Đề trình
bày theo lối thủ công.
Có một giai đoạn ngắn, rất hiếm Nghiêu Đề làm việc nhiều, ngoài vẽ
tranh anh giữ phần trình bày và minh họa cho các cuốn sách quý của nhà xuất bản
Cảo Thơm, trong đó có cuốn “Vang Bóng Một Thời”, và sau 1975, khi
Nguyễn Tuân vào Sài Gòn đã rất tâm đắc và trân trọng khi được cầm tác phẩm rất
mỹ thuật của chính mình nhưng lại được xuất bản từ Miền Nam.
Đại Học Xá Minh Mạng và tranh Nghiêu Đề
Trước 1975, tranh Nghiêu Đề là sơn dầu, khổ tranh khá lớn, khi mới
vẽ xong sơn còn ướt, nếu không bị xếp úp mặt vào đống tranh cũ đã bám bụi bặm,
thì thường được bạn bè khuân đi.
Đôi khi có nhu cầu vẽ mà không có tiền mua khung vải, Nghiêu Đề đã lấy
một bức tranh cũ và vẽ trồng lên đó. Căn phòng 3/7 trong Đại Học Xá của
tôi cũng là nơi treo tranh của Nghiêu
Đề (Trăng, sơn dầu phụ bản 1), ít lâu sau đó bức tranh này được Nghiêu Đề đem
bán, không biết nay ai hiện là sở hữu bức tranh mang nhiều nhiều kỷ niệm như
vậy. Và đây cũng là một trong 3 phụ bản mà sau này bạn tôi, anh kỹ sư Nguyễn
Công Thuần đã sao chụp lại được từ cuốn tiểu thuyết Gió Mùa còn lưu trữ trong
Thư viện Đại học Cornell.
Trăng, tranh sơn dầu, phụ bản 1 trong tiểu
thuyết Gió Mùa,
Sông Mã xuất bản 1965 [Label: Wason PL 4389, N473, G4]
Khách ngoại quốc hay người
Việt tha hương lâu năm khi về thăm quê nhà, thường rất chuộng và tìm mua cho
được tranh Nghiêu Đề. Hoàn toàn không có khả năng sáng tạo theo đơn đặt
hàng, gallery của Nghiêu Đề là những bức tranh thất tán nơi
đám bạn hữu.Nghiêu Đề vẽ rất ít không đủ tranh bán và giá tranh thường rất cao.
Và mỗi lần bán được một bức tranh, trong ít ngày sau đó là một Nghiêu Đề hoàn
toàn khác, không chỉ chiếc Mobilete cũ kỹ hiếm khi được đổ
đầy một bình xăng, bạn bè thì được Nghiêu Đề tìm tới và chiêu đãi liên miên cho
tới đồng bạc cuối.
Cũng vẫn Nghiêu Đề trả lời
nhà báo Nguiễn Ngu í trên tạp chí Bách Khoa ngày 15-9-1962:“Tôi không thích
tranh tôi được quá một giờ khi vẽ xong. Chúng thường bị úp một xó cho buị...Tôi
mang ơn những thằng bạn thường đến và lấy đi biệt tăm, như thế tôi yên tâm hơn.
Mỗi lần bán được một bức tranh, tôi thấy như số tiền đó từ trời rơi xuống. Cho
nên tôi vội vung tay quá trán mà không tiếc. Nhiều khi thấy tiền nó quá nhiều,
mình không đáng được! Như một vụ lường gạt. Tôi cảm ơn hết những người iêu
tranh tôi về sự rộng lượng của họ, rộng lượng quá sức!”
Matière tranh Nghiêu Đề
Hai chữ “tạo hình” có lẽ
không hoàn toàn đúng với ý niệm hội hoạ của Nghiêu Đề. Tạo hình không là giai
đoạn quan trọng trên mỗi bức tranh sơn dầu của Nghiêu Đề. Theo anh, tài năng
hoạ sĩ là nơi vẻ đẹp chất liệutrên khoảng trống hay là nền của bức
tranh ấy. Có ngồi hàng giờ, im lặng theo dõi những nét cọ của Nghiêu Đề, để
thấy là từ những tảng sơn dầu dầy cộm màu thô sượng, khi được cây cọ Nghiêu Đề
miết lên mặt bố thoáng chốc trở thành một nền xanh ngọcửng sáng mềm mại, cho dù
chuyển sangvùng xanh đậm mảng tranh vẫn không hề thiếu nét long lanh của ánh
sáng, chất liệu thì mượt mà, bố cục vững chắcmà vẫn thanh thoát, rất Nghiêu Đề.
Nghiêu Đề thường nhắc tới
chữ matière trên mỗi bức tranh,tôi chưa tìm được một thuật ngữ
hội hoạ nào để dịch sang tiếng Việt. Nguyên Khai thì gọi đó là gamme màu,Huỳnh
Hữu Uỷ, thì đơn giản gọi đó là “chất” như chất tranh của Nguyễn Trung, Cù
Nguyễn, Lâm Triết… Trở lại với đường nét tạo hình,theo Nghiêu Đềthì đó không
phải là một sao chép từ cuộc sống, “hoạ sĩ là người tìm được một nét
đúng giữa hai nét sai của thực tại.”
Gần đây khi bànvề vẻ đẹp
của một tác phẩm hội hoạ, Trịnh Cung đã phân tích ra 5 yếu tố: ý tưởng,
bố cục, đường nét, màu sắc ánh sáng, vẻ đẹp chất liệu / matière. Có thể nói yếu
tố thứ năm:“vẻ đẹp chất liệu / matière” đã tạo nên sự thanh thoát
và cũng là phong cách tranh của Nghiêu Đề.
Sau 1975, có giai đoạn
Nghiêu Đề chuyển qua tranh sơn mài, cùng với Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ mà sau này
chính anh cũng công nhận là nặng phần kỹ thuật, và anh nói sau khi phủ các lớp
sơn lên để mài thì vẻ đẹp chất liệu của bức tranh nhiều khi rất tình cờ ngoài
tầm kiểm soát của hoạ sĩ. Nghiêu Đề khi sang định cư ở Mỹ năm 1984, có đem theo
được một số tranh sơn mài rất đẹp, tuy thành công về tài chánh nhưng chính anh
tự biết giai đoạn hội hoạ thực sự nghệ thuật của Nghiêu Đề là tranh sơn dầu
được vẽ vào những năm 1960-1970, như những bức: Đêm, Tỏ Tình, Vùng Thanh Thoát, và điển hình là cả bức Chân Dungđoạthuy chương bạc Hội
hoạ Mùa Xuân 1961.
Thiếu nữ, tranh sơn dầu: phụ bản 2 và 3 trong
tiểu thuyết Gió Mùa
Sông Mã xuất bản 1965
Nghiêu Đề và Ngọn Tóc Trăm
Năm
Truyện của Nghiêu Đề như
những bài thơ xuôi. Cũng như tranh, Nghiêu Đề chưa bao giờ tỏ ra ưng ý một sáng
tác nào. Nhưng rồi cuối cùng vẫn có được một tuyển tập Ngọn Tóc Trăm
Năm được Sông Mã xuất bản (1965). Cuốn sách đẹp, cho dù in theo lối
thủ công từ nhà in Nguyễn Trọng rất nhỏ, khuất lấp trong một ngõ hẻm phía sau
Lăng Ông bên Gia Định. Sách được in từng 2 trang trên đĩa xoay của một
máy pedalvới bộ chữ thì đã mòn cũ. Chủ và cũng là thợ nhà in thì
rất quý Nghiêu Đề, nên chỉ tính tiền giấy và công in rất tượng trưng, nhưng
thời gian in xong cuốn sách 122 trang kể cả phụ bản thì khá lâu do sách chỉ
được in xen kẽ khi máy rảnh công việc. Thường mỗi cuối tuần, hai anh em chở
nhau xuống nhà in, cầm trên tay những trang sách còn thơm mùi giấy mực. Sách in
rất ít nên có lẽ không được nhiều người biết hay còn lưu giữ được. Có một chi
tiết tưởng cũng nên ghi lại ở đây: năm 1985, khi gặp lại Nghiêu Đề trên đất Mỹ
tôi mới được biết ông chủ nhà in Nguyễn Trọng năm xưa là một cán bộ VC cấp cao
nằm vùng và nhà in thủ công ấy có lẽ chủ yếu là nơi in ấn những truyền đơn và
tài liệu nội thành của Mặt Trận.
Thật xúc động khi tìm lại
được một ấn bản đặc biệt Ngọn Tóc Trăm Năm có lẽ là duy nhất
in trên giấy croquis còn trong tủ sách của Bé Búp con gái
Nghiêu Đề ở San Diego. Sách đóng bìa cứng bọc da, in chữ Nguyễn Toản mạ vàng
nơi gáy sách, là tên của thân phụ mà Nghiêu Đề hết lòng yêu mến. Ông mất khá
sớm khi gia đình Nghiêu Đề còn sống trong một chung cư nhiều tầng trên con
đường Duy Tân. Sau đó gia đình mới dọn về địa chỉ 19B Lý Trần Quán, Sài Gòn.
Đây cũng là địa chỉ mà hai anh em chọn cho Nhà Xuất bản Sông Mã. Ngọn Tóc Trăm
Năm, gồm 4 truyện ngắn và 4 phụ bản tranh, đã như cơ hội họp mặt của bằng hữu.
Nguyễn Xuân Hoàng biết
Nghiêu Đề là tác giả của Ngọn Tóc Trăm Năm, nên đã đôi lần hỏi xin một truyện
ngắn cho báo Văn, nhưng anh chỉ cười và Nguyễn XuânHoàng kể lại: “Thỉnh
thoảng Nghiêu Đề gửi cho Văn một bài thơ và tuyệt nhiên không thấy một truyện
ngắn mới nào. Nhiều lần tôi hỏi anh và anh nói: màu sắc đủ rồi, thơ cũng
là quá một bước, truyện ngắn là lỡ bước thứ hai…” (Một Chút Kỷ niệm
với Nghiêu Đề, NXH
San Jose,16/11/1998)
Ngọn Tóc Trăm Năm, truyện nghiêu đề Bìa nguyễn trung
Phụ Bản: lâm triết, cù nguyễn, nguyễn
trung, nghiêu đề;
Trình Bày trần dạ từ
songmaxuatbanmotchinsaulam
Mục lục:
7 nai, lâm
triết sơn dầu
9 VÙNG CỎ XANH
37 thảo và hoa, cù
nguyễn sơn dầu
39 NGƯỜI ANH EM CỦA
ĐẤT
67 vùng thanh thoát,
nghiêu đề sơn dầu
69 NGỌN TÓC TRĂM NĂM
93 chân dung, nguyễn
trung sơn dầu
95 KHOẢNG RỢP CỦA
BIỂN
Khi Nghiêu Đề lâm trọng
bệnh, Giang và các con kết hợp với Viet Art Society, chuẩn bị ra một cuốn sách
về Nghiêu Đề, tôi không ngạc nhiên khi biết ngoài phần hội hoạ bạn mình đã
không muốn đưa Ngọn Tóc Trăm Năm vào cuốn sách như một tổng kếtcuối đời. Cho dù Nghiêu Đề phủ nhận tác phẩm của mình thì những
trang sách ấy tự nó vẫn là một giá trị của văn học của Miền Nam trước 1975.
Một thoáng Nghiêu Đề và
Vòng Đai Xanh
Triết nhân vật chính trong
tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, một hình tượng văn học, nguyên gốc hoạ sĩ sau trở
thành phóng viên chiến trường có bóng dáng Nghiêu Đề trộn lẫn với cái tôi của
tác giả.
Tiểu thuyết
Vòng Đai Xanh, Ngô Thế Vinh, Nghiêu Đề trình bày,
Thái Độ xuất
bản (1971) [Label:
Wason PL 4389, N473, V9]
… Rồi cũng như mọi buổi
sáng khi tờ báo lên khuôn là lúc tôi có thể rời toà soạn xuống tán dăm ba câu
chuyện gẫu với cô thư ký hay ra đầu ngõ kêu một ly cà phê bít tất đắng, ngồi
nói chuyện tầm phào với bất kỳ người nào có mặt ở đó, thường là đám công nhân
nhà in hay thợ sắp chữ. Cái còn lại của một ngày là tất cả sự vắng lặng êm ái.
Từ một cầu thang xoắn ốc và mờ tối, không khí căn phòng như ngưng đọng lạnh
lẽo. Những chiếc bàn máy đen sẫm im ngủ. Bàn ghế cũng có những tương quan
chỗ đứng của chúng.
Đôi khi sự quen thuộc cũng
nhuốm vẻ xa lạ như ngày mới tới. Nếu còn vẽ chắc tôi có thể làm việc với những
cảm giác đầu tiên như vậy. Bỏ xa khung vải tôi không tránh được những cảm giác
nhớ nhung. Sau vụ cháy thiêu huỷ tất cả, tôi đã dứt khoát từ bỏ giá vẽ chưa
biết đến bao giờ. Dù vậy mà ở lần triển lãm mới nhất tôi vẫn góp mặt với bốn
bức tranh lớn, những bức tranh còn lại rải rác trong đám bạn hữu. Sự kiện có
thêm tên tôi cũng không có gì để phản đối và thêm ý kiến. Nhưng điều ngạc nhiên
là ngay trong buổi đầu, tôi là người đầu tiên có tranh bán được, ba trong số
bốn bức. Riêng bức Mèo Đen Trên Thảm Hồng do một người đàn bà tên Như Nguyện
hỏi mua, còn hai bức kia do một người khách Mỹ mà sau này tôi được biết là nhà
báo Davis. Tranh tôi thuộc loại khó được ưa thích và vì khó bán nên giá thường
rất cao. Cũng bởi vậy lần này tôi đủ tiền để trả những món nợ lớn, sắm thêm một
bàn máy đánh chữ nhỏ và một ống ảnh thật tốt. Như một nhà nông hưởng vụ gặt
trái mùa, tôi dứt khoát từ bỏ hội hoạ với những ưu đãi thật trễ muộn của nó.[VĐX, Chương1, Nxb Thái Độ 1970]
Một Nghiêu Đề Khác
Không tự ràng buộc vào những quy ước thông tục của đời sống,
dễ nhìn Nghiêu Đề như một người phóng giật hay buông thả bất cần đời, anh hoà
nhập với mọi người nhưng lại hàm chứa vẻ cao ngạo với chính anh chứ không với
ai khác.Là người bạn đôn hậu, không hề cay độc nhưng lại rất cynical, Nghiêu Đề
vẫn hồn nhiên gọi chólà đồng loại. Nói như Oscar Wilde: “Anh là mẫu
người biết giá của mọi thứ, nhưng không có gì giá trị đối với anh / A man who
knows the price of everything and the value of nothing”.
Giữa cuộc chiến tranh khốc
liệt, nhiều bạn thân của anh là nhà văn nhà thơ nơi tuyến đầu, anh không phê
phán và chọn đứng ngoài cuộc tranh chấp ấy. Anh sống với màu sắc, trong an
nhiên tự tại, Nghiêu Đề chính là hình ảnh con chim Nguyệt trong thế
giới mộng ảo nơi quê anh rất mong manh, bay thật cao hót thật hay và tan vào
trong đêm trăng. Nghiêu Đề khiến tôi liên tưởng tới nhân vật Sơn Ca của Vũ
Khắc Khoan trong vở kịch Thành Cát Tư Hãn.
Rất tình cờ khi giở những
trang sách Ngọn Tóc Trăm Năm, thấy rơi ra một tấm hình không rõ năm nhưng rất
cũ đã hoen màu thời gian, nhưng tôi vẫn còn nhận ra đôi lãng tử Nghiêu Đề và
Lâm Triết với chiếu manh túi xách trên dọc đường gió bụi, có khoảng thời gian
họ đã cùng thuê căn gác xép để vẽ vời và cả tụ hội với bạn bè,nơi mà chủ căn
nhà còn có nuôi thêm gà và heo, nặng mùi khó thở ngày đêm, nhưng họ
vẫn ở đó lâu năm với giấc mộng dài. Rồi Nghiêu Đề đoạt huy chương bạc
với bức Chân Dung trong triển lãm Hội họa mùa xuân 1961; sau đó Lâm Triết huy
chương vàng với bức Ngựa trong Triển lãm Hội họa mùa xuân 1962. Nghiêu Đề thì
nay đã mất, Lâm Triết đã dừng cơn gió loạn,giã từ Sài Gòn để về “cõi an
bình”sống lặng lẽ với cỏ cây nơiBình Định quê nhà.
Thay lời kết: 3 bức tranh
sơn dầu cuối của Nghiêu Đề trên đất Mỹ
1986: Bố cục Sen, một thiếu nữ thanh thoát vươn lên từ những búp sen. Được hoàn
tất sau ngày gia đình Nghiêu Đề đặt chân trên đất Mỹ. Tiền bán bức tranh lúc đó
đủ mua một cây đàn piano cho tụi nhỏ. Hành trình của bức tranh này cũng khá kỳ
lạ, từ San Diego theo chủ nó về Việt Nam, sau một thời gian bức tranh ấy lại
sang tay một người khác, sau đó bức tranh lại sang tay một người thứ ba và nay
trở lại đất Mỹ. Hình bức tranh do người viết mới chụp từ trong một ngôi nhà vùng
Huntington Beach.
1988: Vườn chuối 1988, một cô gái
nhỏ nép bên vườn chuối mướt xanh. Khác các chân dung thiếu nữ có nét già dặn
chín mùi của những người yêu Nghiêu Đề trước 1975, nay chỉ còn là những cô gái
nhỏ mang dáng nét thơ ngây của mấy đứa con Nghiêu Đề. So với trước 1975, tranh
sơn dầu của Nghiêu Đề trên đất Mỹ vẫn có màu xanh nhưng nay có thêm những mảng
màu vàng đỏ như phản ánh một giai đoạn có thoáng hạnh phúc.
Bức tranh này đã có người
từ Los Angeles xuống nhà San Diego để mua vàkhông còn nhớ tên là ai là
chủ nhân nữa.
1998: Bé Sài Gòn, Nghiêu Đề khi biết mình
ngã bệnh, xuống sắc rất mau, cả vật vã đến xanh xao với những cơn đau nhưng anh vẫn gượng dậy vẽ bức chân dung con gái
út Bé Sài Gòn lúc
ấy 19 tuổi. Có lẽ đây là tác phẩm sơn dầu cuối cùng,
còn dở dang của Nghiêu Đề mấy tháng trước khi anh mất. Bức tranh hiếm hoi ấy
nay còn được treo nơi nhà Nguyễn Nghiêu Ngung, Cu Bi con trai Nghiêu Đề dưới
San Diego.
Bài viết tháng 11 muộn
màng này để tưởng nhớ người bạn tấm cám và cũng gửi tới chị Giang, Cu Bi, Bé Búp và Bé Sài
Gòn nhân ngày giỗ thứ 16 củaNghiêu Đề.
NGÔ THẾ VINH
Sài Gòn 1958 – California
2014