NGUYỄN LƯƠNG VỴ
Thanh Tâm Tuyền - âm vang khác
Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền (15.03.1936 –
22.03.2006), một trong những thành viên sáng lập trụ cột của Tạp Chí
Sáng Tạo (1956 – 1960), một trong những thi tài tầm cỡ nhất của thi ca miền Nam
(1954 – 1975), với 2 thi tập tiêu biểu: Tôi Không Còn Cô Độc (NXB
Người Việt, 1956), Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy (NXB Sáng Tạo, 1964). Là
người tiên phong của phong trào Thơ Tự Do, một phong cách thơ phóng khoáng,
cách tân, hiện đại và đầy tính sáng tạo.“Tôi đi tìm tiếng nói / Cho cổ họng
của tôi,” Thanh Tâm Tuyền đã tạo được ảnh hưởng và nguồn cảm hứng thơ khá
lớn đối với giới cầm bút trẻ lúc bấy giờ và kể cả sau nầy.
Điều
đáng kể trong thơ Thanh Tâm Tuyền là tính đột phá về ngôn ngữ thơ và cấu
trúc thơ rất mới, rất lạ. Ngôn ngữ thơ luôn biến ảo, phơi mở, giàu hình
ảnh, đẹp một cách tự nhiên. Cấu trúc thơ luôn ở trạng thái động, phân ly, gấp
gãy, gập ghềnh. Đó cũng chính là sức quyến rũ, lực hấp dẫn của thơ Thanh Tâm
Tuyền: Niềm khát khao cách tân, sáng tạo với nỗ lực khai phá quyết liệt, thường
trực, bền bỉ.
Bài
viết nầy, không có tham vọng đọc, nghe và cảm nhận một cách toàn diện về cõi
thơ Thanh Tâm Tuyền, mà chỉ giới thiệu một“Âm Vang Khác” của thi sĩ: Bài
thơ “Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng” (đã được đăng lần đầu tiên trên tạp chí
Văn, tại Sài Gòn, số ra ngày 27 tháng 11 năm 1972). Bài thơ gồm 6
biến khúc, 160 câu (“6 biến khúc quanh một đề thơ cổ.” Thi sĩ ghi ngay
dưới tựa đề bài thơ).
Trước
khi giới thiệu nội dung bài thơ, xin trích một đoạn trong bức thư ngày 30 tháng
9 năm 1972, thi sĩ viết gửi cho “Mon ile”(1) có đoạn:
"...Đã
hết tháng chín. Thêm bài "Ngôi nhà đỏ" nữa. Thế có lãng mạn quá
không? Bài thơ thứ ba, thứ tư, nếu kể cả bài Đảo. Hình như còn nữa. Giống như
họa sĩ đứng trước ngôi nhà vẽ vài chục bức, với màu sắc ánh sáng bố cục thay
đổi. Giống như nhạc sĩ có một cái "thème" và nhiều
"variations". Chưa bao giờ anh nghe mình du dương lạ thế. Anh nghe
vang hoài "ngôi nhà đỏ trăng hồng..." và anh chỉ việc thêm vào chữ
chót rồi theo rõi cả ngày, cả tuần những lúc quạnh hiu. Đã có trăng hồng hạ,
trăng hồng lạ, trăng hồng lả... Còn những trăng hồng gì nữa anh sẽ thấy. Có thể
anh viết hết cả xấp giấy này cho những bài trăng hồng chưa chừng..."
“Mấy
bài thơ về ngôi nhà này chừng đăng anh sẽ đề là "Biến điệu quanh một bài
thơ cổ" Anh nhớ bài thơ của Thôi Hộ (2):
Tích
niên kim nhật thử môn trung
Phấn
diện đào hoa tương ánh hồng
Phấn
diện kim niên hà xứ khứ
Đào
hoa y cựu tiếu đông phong.”(3)
Như
vậy, bài thơ của Thôi Hộ đã gợi hứng cho “Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng” của
thi sĩ. Nhưng, thay vì trích 4 câu thơ trên của Thôi Hộ vào đầu bài thơ, thi sĩ
lại trích dẫn 6 câu thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, đoạn nói về lúc Kim
Trọng trở lại vườn Thúy (đúng ra là hiên Lãm Thúy, nơi Kim Trọng trọ học trước
đây, thường làm nơi hẹn hò với Thúy Kiều). Kim Trọng trở lại, nhưng chốn cũ còn
đây, người xưa (Thúy Kiều) không còn nữa. Trong 6 câu thơ nầy, có 1 câu được
chuyển dịch từ thơ Thôi Hộ:
“Trước
sau nào thấy bóng người
Hoa
đào năm ngoái còn cười gió đông.(*)
Xập
xòe én liệng lầu không,
Cỏ
lan mặt đất, rêu phong dấu giày.
Cuối
tường gai góc mọc dầy
Đi
về này những lối này năm xưa...”
(Nguyễn
Du – Truyện Kiều.)
(*) Chuyển dịch từ câu:
“Đào hoa y cựu tiếu đông phong” của Thôi Hộ.
Với
6 biến khúc, mỗi biến khúc lặp lại câu mở đầu, chỉ thay đổi vài ba chữ ở cuối
câu:
Câu
mở đầu, biến khúc 1 (24 câu): Ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng hạ.
Câu
mở đầu, biến khúc 2 (24 câu): Ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng lạ.
Câu
mở đầu, biến khúc 3 (36 câu): Ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng lả.
Câu
mở đầu, biến khúc 4 (24 câu): Ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng đuối nhớ
Câu
mở đầu, biến khúc 5 (24 câu): Ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng vằng vặc.
Câu
mở đầu, biến khúc 6 (28 câu): Ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng khỏa.
NGÔI
NHÀ ĐỎ, TRĂNG HỒNG (4)
Biến
khúc 1:
Ngôi
nhà đỏ trên đồi trăng hồng hạ.
Hạ
nồng nàn quyến rũ môi hôn,
Gọi
mưa mùa tắm gội xanh cỏ lá,
Dập
tắt sầu thiêu đốt, phả du dương.
Mưa
ngày qua, mưa ngày nay, xám ngắt.
Cửa
đóng cài, cửa ẩm mốc cô đơn.
Gõ
lên đi ngón tay cung khờ khạo.
Nép
đầu say, tóc rối mộng thầm.
Ngồi
xuống ghế mộc bầy riêng lẻ.
Chiều
bên vườn gợn sóng nắng sơ thu.
Im
tượng gỗ. Tiếng chân ai thoát chạy.
Bỗng
bâng khuâng thang cấp lượn mơ hồ.
Trèo
dốc đứng, vội vàng hơi thở hụt.
Bậc
đá mòn rợp lối phân vân.
Hồn
đá nín thiên thu chót vót.
Ghì
ôm sâu chớp sấm non ngàn.
Theo
lối khác. Giẫm dấu chân người lạ.
Đất
trượt trơn. Cây cối rõi trông tìm.
Trăng
hồng sáng ngân nga lửa lạnh.
Nhà
lao đao. Đồi rào rạt ngoan nằm.
Kẻ
lạ mặt bỗng đêm mai hoảng thức,
Thấy
ngôi nhà bằn bặt cháy như tim.
Đồi
giông gió lay trăng hồng lả thiếp.
Và
hàm hồ buột giấc khóc êm.
Đồi
trăng hồng hạ, nhưng là cuối hạ đang chuyển sang sơ thu, với không gian“Hạ
nồng nàn, quyến rũ môi hôn.” Người xưa, nay như là “kẻ lạ
mặt” trở về chốn cũ, mà chốn cũ thì “Cửa đóng cài, cửa ẩm mốc cô đơn.”
“Chiều bên vườn gợn sóng nắng sơ thu.” “Bậc đá mòn rợp lối phân vân.” Ấn
tượng nhất là sau khi ngắm nhìn, cảm nhận và bằng những động tác dò dẫm, làm
quen lúc ban đầu trở về như: Nép đầu - ngồi xuống ghế - trèo dốc đứng - giẫm
dấu chân người lạ thì “Kẻ lạ mặt bỗng đêm mai hoảng thức, / Thấy ngôi
nhà bằn bặt cháy như tim./ Đồi giông gió lay trăng hồng lả thiếp./ Và hàm hồ
buột giấc khóc êm.” Bốn câu thơ cuối của biến khúc bộc lộ cảm xúc, tâm
trạng của “kẻ lạ mặt”:“Thấy ngôi nhà bằng bặc cháy như tim.” Nỗi nhớ dậy
lên như lửa cháy. Ngôi nhà là một trời kỷ niệm. Ảnh chiếu của ngoại giới đi vào
tâm cảnh. Biến khúc dạo đầu cuốn hút ngay người đọc.
Biến
khúc
2:
Ngôi
nhà đỏ trên đồi trăng hồng lạ.
Chiều
úa tàn, trời tím buổi tinh sương,
Nắng
hớn hở - nắng trong veo như mắt –
Mỉm
cười xa, phố thấp, vẫy chàng.
Mái
nghiêng cúi, ngói nâu đời cũ xỉn.
Trổ
bông xưa, phơi đoá mộng dị kỳ.
Mộng
vời vợi, chuỗi mưa điên xối xả.
Xuôi
theo mưa giọt lệ chia lìa.
Tường
ấp ủ hơi dồn nghìn giấc chết.
Nắng
như trăng nhóm lửa bơ vơ.
Gương
mặt héo chập chờn sau giậu đổ
Khuất
dung nhan trong dáng ơ hờ.
Thềm
quạnh quẽ gọi chân ai hồi tưởng
Gót
cô đơn nghe rảo tận hiên ngoài.
Quãng
trống trải, lịm say trăng thố lộ
Những
âm vang cùng thẳm cuối trời.
Đèn
vẫn thắp. Cửa sổ kia vẫn mở.
Loé
sáng mù như một đốm sao.
Đêm
dần lụn. Bướm đen vờn nghiêng ngả.
Đâu
người ngồi nhập kiếp chiêm bao?
Trăng
lợt lạt. Nhà im. Đồi rét mướt.
Tiếng
sáo khuya rong ruổi u hoài.
Đường
trơn dốc đẩy chân trì níu.
Nhà
lênh đênh theo trận lũ rã rời.
Biến
khúc như một bức tranh lung linh sắc màu, đẹp cô liêu. Gam màu chính là đồi
trăng hồng lạ, hòa quyện cùng với các màu trời tím buổi tinh sương,
màu nắng trong veo, màu nắng như trăng, màu ngói nâu, màu
lóe sáng mù, màu bướm đen, màu trăng lợt lạt. Trầm mình trong
sắc màu lung linh ấy,“kẻ lạ mặt” lại nuối mộng với chuỗi mưa điên xối
xả đầy tâm trạng. Nuối mộng, nhưng vẫn hiện hữu trong cõi thực: “Tường
ấp ủ hơi dồn nghìn giấc chết./ Nắng như trăng nhóm lửa bơ vơ.” Vẫn ám ảnh:
“Gương mặt héo chập chờn sau giậu đổ / Khuất dung nhan trong dáng ơ hờ.”
Dấu hỏi trong cơn u mộng ảnh “Đâu người ngồi nhập kiếp chiêm bao?” “Kẻ
lạ mặt” đã: “Xuôi theo mưa giọt lệ chia lìa.” Còn ngôi nhà
thì: “lênh đênh theo trận lũ rã rời.” Biến khúc với những nhịp ngắt
chậm, u trầm, rồi buông dài trong khổ thơ cuối, chuẩn bị chuyển sang biến khúc
tiếp theo, dồn dập cao trào.
Biến
khúc
3:
Ngôi
nhà ở trên đồi trăng hồng lả.
Trời
vàm sông, bến quạnh gió mù tăm.
(Nước
thao thức lòng sâu cuồn cuộn hút)
Nàng
trở về lạc nẻo đêm rằm.
Những
trận mưa, những trận mưa tầm tã
Đẩy
trôi trăng ra biển im hơi.
Những
giọt sương, những giọt sương giả lả
Lá
khép thu, nương náu, kinh lời.
Bậc
đá nổi. Ảo giác buông. Lối ẩn.
Thềm
nào đây trải rộng giấc hoang vu.
“Chàng
đâu? Chàng đâu? Riêng mình ngơ ngác.”
Chốn
tình si thoang thoảng giọng cười mờ.
Trong
thớ mủn mưa hắt đầm lạnh lẽo
Nắng
muộn màng, nhợt nhạt reo vui
Trên
cửa khoá, phô vết thương loang lở
Gỗ
xác xơ. Mắt khép bùi ngùi.
Trên
hàng hiên động tiếng mòn. Cửa mở.
“Nàng
là ai?” Âm dội vẳng quanh vòm
Phút
tối ám. Ngoài kia trời đục xoá.
“Nàng
là ai?”Hoảng hốt cánh dơi đêm.
Đừng
khêu lửa. Chân mập mờ bước sóng.
Buồng
tim ta lửa ngún phủ thê lương.
Đừng
khêu lửa. Ngọn lắt lay toả bóng.
Buồng
tim ta sáng quắc ánh băng.
Hai
tay giá trườn quanh hương nồng vắng.
Tường
ẩm rêu. Ghế bụi. Ôi mùa hè.
Gió
lùa thổi, nắng bay. Bàn quên lãng.
Những
đốm hoa nhảy nhót ham mê.
Khuôn
cửa sổ, gương chìm không hắt ảnh
“Nàng
là ai?” Chàng dưới thấp sau gương
Phố
khuya lạc, mờ như đang thu muộn
“Nàng
là ai?” như thể lối vô cùng.
Níu
chặt song, dáng cây sầu khô trụi,
Trong
vườn xưa nàng khóc cạn đêm nay.
Trăng
thất sắc lánh xa. Ngày sợ rạng.
Đồi
chập chờn. Cỏ rối tưởng heo may.
Trong
khung cảnh: “Ngôi nhà ở trên đồi trăng hồng lả./ Trời vàm sông. Bến quạnh
gió mù tăm.” Thì bỗng nhiên, như một giấc liêu trai ma mị: “Nàng trở về
lạc nẻo đêm rằm.” Sau câu hỏi thảng thốt từ cõi hư ảo của Nàng:“Chàng
đâu? Chàng đâu? Riêng mình ngơ ngác.” Tôi cảm thấy lành lạnh, ngậm ngùi khi
đọc chậm, rõ và cao giọng những câu thơ sau:
“Nàng
là ai?” Âm dội vẳng quanh vòm
“Nàng
là ai?”Hoảng hốt cánh dơi đêm.
“Nàng
là ai?” Chàng dưới thấp sau gương
“Nàng
là ai?” như thể lối vô cùng.
Ở
giữa bốn câu hỏi kia là tiếng hồi đáp bi thương của Chàng, vọng lên trong tâm
tưởng. Tôi tiếp tục đọc chậm, rõ và cao giọng:
Đừng
khêu lửa. Chân mập mờ bước sóng.
Buồng
tim ta lửa ngún phủ thê lương.
Đừng
khêu lửa. Ngọn lắt lay tỏa bóng
Buồng
tim ta sáng quắc ánh băng.
Những
câu thơ đồng hiện trong Âm, Hình và Bóng. Nhịp ngắt, chấm câu, buông câu, làm
cho âm vực vừa rộng vừa sâu như nỗi lòng thảng thốt của ai kia đang la thầm
trong hư vắng. Đẹp và lạnh rưng rưng!
Biến
khúc với nhịp thơ dồn dập , hình ảnh đồng hiện ảo và thực, tâm trạng đầy cảm
xúc, tình huống đầy kịch tính. Theo tôi, đây là biến khúc cao trào nhất, hay
nhất, đẹp nhất của bài thơ, gồm 36 câu, dài nhất trong 6 biến khúc. Phải đọc
chậm lại, rõ từng câu, từng chữ và nghe kỷ lại, nhìn sâu vào từng câu thơ, từng
chữ thơ, thì mới cảm thấu được cái hay, cái đẹp của biến khúc nầy.
Biến
khúc
4:
Ngôi
nhà đỏ đồi trăng hồng đuối nhớ
Thở
hơi sương run rẩy. Ngã trong trời
Nhòe
gió bấc, ngựa mây dồn gấp vó
Tiếng
nhạn đen. Thả bổng quạnh hiu rơi.
Đồi
bập bềnh trôi trên lũng biển trắng
Mái
nhà ôm, nhô nóc hú gào người.
Người
gắng gượng rõi dáng hình lãng đãng.
Đêm
như hồn lóng cóng. Cắn môi.
Những
bực đá lấp chìm. Đá rét mướt
Dâng
dưới chân. Đợt sóng nổi chông chênh.
Người
hẳn tiếc những khuya trời ngỏ thoáng
Đá
nhún mình nâng gót nhẹ thênh.
Bụi
hoa trắng ngó tìm trên đầu dốc.
Hoa
ngời trông. Rạng hiện lối đơn sơ.
Hoa
thù nghịch. Cười ý sầu điên đảo.
Rũ
rượi hong cánh ướt. Quãng mờ.
Đèn
vàng lụn như đầu diêm xoè tắt
Lửa
thuyền xa, đom đóm dạt phiêu bồng.
Tình
rầu rĩ kêu tiếng trầm cắn đắng
Bóng
vang hư, thoáng lịm như không.
Kìa
tóc sũng, tựa gờ tường đay nghiến.
Bám
vịn trên cửa gỗ sượng sùng.
Thềm
hiên gió rập rờn xô huyễn hoặc.
Đầu
buốt mê nhịp gõ kinh hoàng.
Biến
khúc lan tỏa một không gian, một cấu trúc phân ly, song song, gấp gãy, gập
ghềnh trong những chuỗi từ ngữ đầy hình ảnh (hơi sương run rẩy - ngựa mây
dồn gấp vó,/ đồi bập bềnh - lũng biển trắng,/ nhà ôm - nóc hú,/ đá lấp chìm -
đá rét mướt - đá nhún mình,/ hoa trắng ngó - hoa ngời trông - hoa thù nghịch,/
đèn vàng lụn - đầu diêm xòe tắt,/ lửa thuyền xa - đom đóm dạt,/ bóng vang
hư - tóc sũng,/ cửa gỗ sượng sùng - đầu buốt mê). Một không gian vừa
thực, vừa huyễn hoặc. Biến khúc chuyển động những âm vang dìu dặt, mênh
mang cảm xúc trầm tư, hồi tưởng. Những âm trắc cuối câu vút nhẹ niềm bi mẫn,
ánh lên những đốm sáng nhấp nháy không lời. Từng cặp đôi trong mỗi khổ thơ bốn
câu, khi đọc lên và lóng nghe, âm vang chảy song song với bóng hình, rồi hòa
quyện vào nhau. Một cấu trúc lạnh, đẹp, hắt hiu. kết thúc bằng chuỗi âm nhói
lên cơn đau thấm từ ngoài vào trong, sâu, lắng, trôi theo “nhịp gõ kinh
hoàng,” bất tận.
Biến
khúc
5:
Ngôi
nhà đỏ đồi trăng hồng vằng vặc.
Cửa
thiên thanh. Mái xoãi ngủ sậm nâu.
Cây
biếc lục. Trời tím than. Núi sững.
Phố
tuôn vàng huyên náo dưới triền sâu.
Hạ
đen thẳm ngỡ ngàng đuôi mắt sắc.
Cơn
sốt ngày. Nắng trải thảm ham mê.
Mở
tung cửa nhốt thời gian ủ dột,
Gió
mơn man, lùa rạng rỡ đêm hè.
Chàng
thở vội hương bay trên đầu dốc.
Ngực
cồn cào. Trống hụt những âm quên.
Bực
đá gọi – ngát một mùa thảo mộc –
Gọi
trắng trong. Phấp phới. Chuông rền.
Trên
lối nhớ đứng ngây. Tuôn lệ.
Trời
đêm xưa, gió lộng cũng về thăm.
Tường
giãi im. Nàng ngửa đầu chợp mộng,
Thềm
hoang đầy, xanh miết miết trăng.
Chốt
lỏng gãy. Cửa bỏ không. Mờ hoặc.
“Chàng
là ai?” Ghế mộc quỵ rời chân.
Trăng
rọi lối quanh co. Ngách lắng tiếng.
“Chàng
là ai?” Chim kêu lạc. Tần ngần.
Nàng
hớt hải ngoài vườn. Ngày huyễn ảo.
Góp
lượm cành. Đốt lửa. Xốn xang trăng.
Nhà
quay tít trên vòng quay đám hội
Gió
khắp đồi. Lửa chói sáng biển băng.
Bốn
câu thơ trong khổ đầu của biến khúc như một bức tranh toàn cảnh, đẹp long lanh,
lung linh. Ba câu thơ đầu ánh lên nét trầm tư, tĩnh mặc. Câu thơ cuối “Phố
tuôn vàng huyên náo dưới triền sâu” hình ảnh linh động, huyền ảo để rồi
chuyển sang khổ thơ tiếp theo,“Hạ đen thắm” – “đuôi mắt sắc” đồng hiện
tâm trạng, cảm xúc ngỡ ngàng của cảnh và người, của người và cảnh. Ngày
- lên cơn sốt. Nắng - trải thảm ham mê. Để làm gì đây? “Mở
tung cửa nhốt thời gian ủ dột,/ Gió mơn man, lùa rạng rỡ đêm hè.” Đêm lại
trở về. Chàng và Nàng hiện ra hư hư thực thực trong 2 khổ thơ tiếp sau. “Chàng
thở vội hương bay trên đầu dốc./ Ngực cồn cào. Trống hụt những âm quên.” –
“Tường giãi im. Nàng ngửa đầu chợp mộng,/ Thềm hoang đầy, xanh miết miết
trăng.” Đồng hiện ảnh thực, ảnh ảo đầy tâm trạng! Trong biến khúc nầy, Nàng
“lên tiếng,” hay là ảo thanh của nàng: “Chàng là ai?” “Chàng là ai?”
Không lời hồi đáp. Đêm liêu trai ma mị đã qua. Bóng ngày hiện ra, ẩn hiện đâu
đó hình ảnh:“Nàng hớt hải ngoài vườn. Ngày huyễn ảo,/ Góp lượm cành. Đốt
lửa. Xốn xang trăng./ Nhà quay tít trên vòng quay đám hội / Gió khắp đồi.Lửa
chói sáng biển băng.”
Nếu
như biến khúc 3 ở trên đầy cao trào, kịch tích với nhịp thơ dồn dập, hình ảnh
đồng hiện liên tục giữa ảo và thực, thì biến khúc 5 ở đây, âm vang nhịp thơ
trôi chậm lại, dặt dìu, rồi lắng xuống, nhưng hình ảnh hiu hắt, cô liêu hơn.
Biến
khúc
6:
Ngôi
nhà đỏ trên đồi trăng hồng khỏa.
Trời
sương lam. Núi ngây rừng gió lạ.
Cây
ngà say. Đêm heo hút lặng khơi.
Mùa
trở gió. Rười rượi buồn cỏ lá.
Im.
Rớt im. Nhánh khô ròn. Bước động.
Ngói
lệch xô, bàng hoàng, che khuất mộng.
Chàng
quay lưng mỏi mệt ngắm phố chìm.
Cửa
đóng bít. Rào vây. Mắt hoắc trống.
Trăng
chợp lay. Nhỏ to vắng tiếng hát.
Mùa
hạ vàng rực rỡ, tuôn bát ngát.
Đêm
ơi đêm còn khúc điệu nào chăng
Vỗ
về chàng? Trời yếu đau ngăn ngắt.
Mỗi
bực cấp bước leo dầm hiu quạnh.
Thở
chênh chao. Hồn tả tơi sóng sánh.
Đá
mòn ơi, thấm thía dấu lãng quên.
Lối
mờ tỏ. Mưa giông khuya ngất tạnh.
Hãy
đắm đuối. Chàng Orphée si dại.
Đừng
ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Bờ bụi.
Tủa
gai, vườn hoang phế. Bóng ảnh nàng
Trôi
tan tác trong hành lang thẳm tối.
Cửa
ngõ chết, nỗi mù dằng dặc
Hoa
trông vời khép niềm riêng nghi hoặc.
Đừng
ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Chàng ơi.
Trăng
ngỡ sáng. Trăng ngậm sương trầm mặc.
Mùa
ngã độc. Nhà nín hơi lẩn lút.
Đồi
sượng sần. Cây lìa cành, lá trút.
Đừng
ngoái nhìn. Phơ phất khói sương thu.
Đừng
ngoái nhìn. Trăng khoả thân xanh mướt.
Nàng
vắng bặt, biến mất, chẳng biết đi đâu, về đâu! Ngôi nhà đỏ nổi hẵn lên giữa màu
trăng hồng khỏa. Ba câu thơ cuối của khổ thơ đầu ngắt nhịp đều 3-5, 3-5,
3-5: “Trời sương lam. Núi ngây rừng gió lạ./Cây ngà say. Đêm heo hút lặng
khơi./Mùa trở gió. Rười rượi buồn cỏ lá.” Tôi đọc chẫm rãi, nhỏ giọng, rõ
chữ, ngắt câu theo từng dấu phẩy, dấu chấm của 3 khổ thơ tiếp theo: Không gian
của một đêm “Im. Rớt im.” Nghe được hết “ Nhánh khô ròn.” “
Bước động.””Ngói lệch xô.” “phố chìm.” Thể xác, thần hồn của Chàng mỏi mệt,
vừa bước đi, vừa quay lại ngoái nhìn “phố chìm” – “cửa đóng bít” – “rào vây”
bằng “mắt hoắc trống.” “ Im. Rớt im”. Quạnh hiu đặc quánh, quắt
queo. Cực điểm cô liêu:“Trăng chợp lay. Nhỏ to vắng tiếng hát.” Đẹp ngất
cô liêu: “Mùa hạ vàng rực rỡ, tuôn bát ngát.”
Hãy
nhìn bóng dáng của Chàng: “Mỗi bực cấp bước leo dầm hiu quạnh./ Thở chênh
chao. Hồn tả tơi sóng sánh.” Chỉ còn biết bày tỏ, tâm sự với: “đá mòn,”
“ lối mờ tỏ,” “ mưa giông khuya.” Vọng lại từ cõi im vắng mơ hồ: “Hãy
đắm đuối. Chàng Orphée si dại.” Chàng thi sĩ Orphée (5) rất mực tài hoa,
rất mực hào hoa của xứ sở Hy Lạp phiêu bồng thần thoại! Nàng Eurydice kiều diễm
, người yêu dấu của Orphée, đã chết lần thứ hai vì cái ngoái nhìn si
dại (do Orphée quên mất lời Diêm Vương dặn dò). Từ câu chuyện của Orphée,
vang lên tiếng vọng cảnh báo cho Chàng: “Đừng ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn.
Chàng ơi.” “Đừng ngoái nhìn. Phơ phất khói sương thu./ Đừng ngoái nhìn.
Trăng khoả thân xanh mướt.” Nhưng, cảnh báo cũng bằng thừa, vì, dẫu cho
Chàng có ngoái nhìn, thì Nàng đã là, vẫn chỉ là một ảnh ảo, mơ hồ, lãng
đãng khói sương, huyền hoặc mà thôi! Toàn bộ biến khúc gieo vần theo âm trắc ở
cuối câu, khắc khoải, tiếc nhớ, trống vắng, heo hút.
Trong
bức thư thi sĩ viết tại Đà Lạt, gửi cho “Đảo xa,”(6) ngày 27 tháng 10
năm 1972, có đoạn: “Anh có được nghe một bộ đĩa quý gồm những tác phẩm của
Bach do Casals tình cờ lục kiếm thấy, một mình Pablo đàn và thỉnh thoảng nghe
nổi giọng ngâm nga của Pablo theo tiếng đàn của mình. Tuyệt. Em có thích tiếng
đại hồ cầm không? Anh mê. Đêm qua anh đã thu vào băng 7 biến khúc cho Piano và
đại hồ cầm của Beetho trên một thème của Mozart nhưng lại phải xóa đi vì thiếu
chỗ. Nếu em thích lần sau anh mua cuốn băng 90 và sẽ thu cho em nghe
những khúc đại hồ cầm của Beeth. Anh cũng có một cuốn băng ru mình ngủ. Pablo
Casals độc tấu những điệu ru ngắn.
Khúc
thứ 3 - Sleepers awake - cũng như khúc trám sau Sonate của Beetho -
Jesus, Joy of Man's desiring - có tính cách tôn giáo. Tuy nhiên nghe thoáng,
bỗng, mát mẻ và trầm tĩnh nhường nào. Có phải không em? Nhưng tuyệt nhất là khúc
Toccata and Fugue. Anh nghe hoài không chán những Fugue của Bach. Tuyệt đỉnh
nghệ thuật của Bach và cách viết Fugue (nghĩa là có bao nhiêu giọng đều cùng
trổi hết vẻ của mình, tưởng như ganh đua hỗn độn mà hòa hợp tài tình) là cái
Bach mang đến cho âm nhạc. Nghe Fugue mới thấy tràn trề, yêu đời, nồng nàn, cởi
mở nghĩa là đúng như em nghĩ " hạnh phúc túy lúy". Nhưng em nhớ, Bach
mập lắm, "túy lúy" mà vẫn vững vàng oai vệ không hề "lảo
đảo" "hụt hơi" "chân nam đá chân xiêu" thảm hại đâu.
Em nghe kỹ xem.
Trước
khúc Toccata and Fugue, là Little Suite. Đúng là little. Nhỏ nhẹ, dễ thương,
gọn gàng, giản dị hết sức. Nhưng đâu có kém đằm thắm. Bach thường viết ngay lập
tức dễ dàng những exercices để dậy con. Chắc đây cũng là bài Bach viết buông
bút, không chút cầu kỳ.”(6)
Đoạn
thư trích dẫn trên đây cho thấy, thi sĩ cũng là người rất đam mê và rất sành
điệu về âm nhạc cổ điển Tây phương, nhất là nhạc giao hưởng.“Ngôi Nhà Đỏ,
Trăng Hồng” hình như đã được “tấu” lên trong một cảm xúc mê đắm, trào dâng
trên nền nhạc của những biến tấu lung linh, huyền ảo. Một bài thơ rất phong phú
về nhạc tính, biến đổi liên tục từ đầu đến cuối. Phải chăng giống như “7
biến khúc cho piano và đại hồ cầm của Beethoven” như thi sĩ đã tâm sự trong
bức thư vừa trích dẫn ở trên?
Xin
nói thêm về những bức thư của thi sĩ viết gửi “Mon ile” cũng như gửi “Đảo
xa.” Tôi đã đọc đi đọc lại khá nhiều lần, rồi bâng khuâng tự hỏi: Vì sao
thi sĩ tự ví mình như một Crusoe thất lạc nơi hoang đảo? (nhân vật bi
hùng Robinson [Crusoe,] cũng là nhan đề cuốn tiểu thuyết lừng danh của nhà văn
người Anh, Daniel Defoe.) Phải chăng, gửi “Mon ile,” gửi “Đảo
xa,” là gửi cho Crusoe thất lạc? Tức là gửi cho chính mình? Gửi cho
cõi cô độc riêng tây của chính mình? Như vậy, viết thư, như là một cách độc
thoại. Một Crusoe thất lạc, tôi nghĩ, thi sĩ đã cảm nhận từ rất lâu cái
mệnh hệ cô độc riêng tây ấy của đời mình. Cảm nhận, nhưng không cần nói ra,
không cần bày tỏ với bất cứ ai, bởi cái phong cách kiêu bạt, bởi trò chơi ẩn
ngôn khinh khoái của thi sĩ? Tự hỏi, rồi tự trả lời một cách tự tin: Đúng vậy!
Những khoảng lặng ngân dài. Thi sĩ lắng nghe trong im vắng: “Chưa bao giờ
anh nghe mình du dương lạ thế. Anh nghe vang hoài Ngôi Nhà Đỏ, Trăng
Hồng..." Đó cũng chính là niềm hứng khởi từ cô liêu vọng lại để
thi sĩ cảm ứng với Thôi Hộ, tấu lên “Sáu biến khúc quanh một đề thơ cổ.”
“Ngôi
Nhà Đỏ, Trăng Hồng” là câu chuyện tình hư hư thực thực không
có kết thúc. Hãy chịu khó đọc lại hai câu thơ cuối trong biến khúc 6, cũng là 2
câu thơ cuối cùng của bài thơ:
Đừng
ngoái nhìn. Phơ phất khói sương thu.
Đừng
ngoái nhìn. Trăng khoả thân xanh mướt.
Chỉ
còn một mình chàng với bóng đêm huyền ảo:“Phơ phất khói sương thu.” “Trăng
khỏa thân xanh mướt.” Vậy thì, bảo chàng “Đừng ngoái nhìn” là tại
sao? Để làm gì? Nàng đã đi đâu về đâu chẳng biết. Nàng đã tan vào cõi không hư.
Phải chăng, Chàng muốn tự an ủi mình rằng Nàng vẫn còn ở đâu đó, có thể Nàng
đang ẩn hiện trong làn khói sương thu phơ phất, có thể Nàng đang ẩn hiện trong
ánh trăng khỏa thân xanh mướt. Vì sợ rằng, nếu Chàng ngoái nhìn, Nàng sẽ
lập tức tan biến đi? Lời khuyên kia, thật ra, cũng là từ tâm thức Chàng dấy
lên, vừa đinh ninh, vừa mơ hồ. Nàng vừa là ảnh thực, vừa là ảnh ảo trong tâm
thức Chàng. Đây cũng chính là sự giằng xé, niềm ray rức khôn nguôi suốt đời của
thi sĩ. Mượn một câu chuyện tình để nói lên thân phận mồ côi, bơ vơ của kiếp
người. Câu hỏi không lời đáp. Lời đáp nằm ngay trong câu hỏi. Thôi Hộ, sau khi
than vãn bên thân xác Nàng đã chết, chỉ còn chút hơi ấm, nhưng điều kỳ diệu đã
giúp Nàng hồi sinh và trùng phùng, tái hợp với Thôi Hộ trọn đời. Nhưng câu
chuyện ấy cũng chỉ là một huyền thoại. Ảo!!! Orphée sau khi bị đám nữ thần lên
cơn ghen tức đâm chết, mới “gặp” lại Erydice ở cõi “bên kia” và “sống” với nhau
trọn đời. Cũng chỉ là thần thoại. Ảo!!! Hai câu chuyện có hậu của huyền thoại
và thần thoại, chỉ để làm thỏa lòng người nghe chuyện. Trở lại “Ngôi Nhà Đỏ,
Trăng Hồng,” câu chuyện tình hư hư thực thực từ đầu đến cuối, mở ra nhưng
không khép lại, không có hậu. Chàng là “kẻ lạ mặt”, Nàng là một ảnh ảo, rất
mơ hồ, đang quẩn quanh, đâu đó. Chàng và Nàng ẩn hiện, bay, lướt, chìm,
tan trong âm vang và sắc màu miên man bất tận. Sáu biến khúc “Thế có lãng
mạn quá không?” - Câu hỏi đầy cảm xúc, hứng khởi của thi sĩ. Tôi thầm nhủ:“Quá
đi chứ! Và còn rất, rất siêu thực nữa.” Một cảm xúc, hứng khởi trên cả
tuyệt vời. “Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng,” với một thủ pháp cấu trúc, ngôn
ngữ thơ thuộc loại bậc thầy! Đúng là một “Âm Vang Khác” rất lung linh,
huyền ảo, rất Thanh Tâm Tuyền.
Thi
tập “Thơ Ở Đâu Xa” (Trầm Phục Khắc xuất bản, 1990, Hoa Kỳ) cũng là một“Âm
Vang Khác” của Thanh Tâm Tuyền. Những bài thơ làm trong chốn tù ngục, đọa
đày khắc nghiệt, nhưng tâm hồn, thần thái của thi sĩ vẫn ung dung, tự tại, an
nhiên chịu đựng bi kịch, tai ách, tuyệt không thù hận, oán than. Thơ trong tù
được nghiền ngẫm trong trí nhớ, được lưu giữ trong óc, trong tim, mà vẫn mài
sắc, cô đọng ý tứ, gây nhiều cảm xúc cho người đọc. Cái tầm, cái tâm của thi sĩ
thật đáng kính nễ. Cuộc đời trần thế của thi sĩ tuy đã khép lại, nhưng phẩm
cách con người, tâm hồn Thanh Tâm Tuyền, thơ Thanh Tâm Tuyền vẫn mãi đẹp, như
chính mong ước, khát vọng của ông:
“Sẽ
chết như sao rơi vào bất tận,
Sẽ yêu như giọt nước hân hoan.”
Nguyễn
Lương Vỵ
Calif.,
03 - 04.03.2012, hiệu đính 12.2014
Chú
thích:
. Về
thân thế và sự nghiệp của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, đã có rất nhiều tạp chí văn
học nghệ thuật, rất nhiều trang mạng đăng tải, nên xin được phép không ghi chú
trong bài viết nầy.
.
(1),(6) Nguồn: http/phannguyenartist.blogspot.com/2011/12/thanh-tam-tuyen. (Vừa
qua, trang mạng phannguyenartist.blogspot.com, trong chủ đề “Mượn Dấu Thời
Gian,” đã công bố, lần đầu tiên, di cảo, gồm một số thư từ và một số bài thơ
của thi sĩ [vào các ngày 22.12.2011 – 08.01.2012 – 30.01.2012 – 07.02.2012 –
20.02.2012 – 25.02.2012 – 01.03.2012]. Xin trân trọng giới thiệu trang mạng nói
trên, để bạn đọc nào chưa biết, có dịp thưởng thức và cảm nhận thêm những “Âm
Vang Khác” của Thanh Tâm Tuyền).
.
(2) Thôi Hộ, tự Ân Công, thi sĩ đời nhà Trung Đường, bên Tàu, Bài thơ
thất ngôn tứ tuyệt của Thôi Hộ mà Thanh Tâm Tuyền trích trong bức thư trên có
nhan đề là “Đề Đô Thành Nam Trang” (Đề [Thơ] Tại Trang [Trại] Phía Nam Thành Đô).
Thành Đô, tức Trường An, kinh đô nhà Đường. Bài thơ của Thôi Hộ, theo truyền
thuyết được kể lại, đại ý như vầy:“Một lần, nhân tiết Thanh Minh, Thôi Hộ dạo
chơi phía nam Thành Đô, nhân thấy một khu vườn trồng đào rất đẹp, tươi thắm
những hoa, chàng đến gõ cổng vào xin nước uống. Lát sau, lại thấy một thiếu nữ
rất đẹp e ấp nấp trong vườn đào. Uống nước xong, chàng ra đi. Đến năm sau, cũng
trong tiết Thanh Minh, chàng trở lại chốn cũ, nhưng cửa đóng then cài, gọi mãi
không thấy ai. Chàng viết bài thơ rồi dán trên cửa, ra đi. Thời gian lâu sau
nữa, khi trở lại, chợt nghe tiếng khóc từ trong nhà vọng ra, rồi thấy một ông
lão xuất hiện, hỏi chàng có phải là Thôi Hộ không, và cho biết, con gái của ông
lão sau khi đọc xong bài thơ, đã bi lụy sầu thương, bỏ cả ăn uống, và đã chết,
xác vẫn còn quàng ở trong nhà. Thôi Hộ tìm vào đến bên xác người thiếu nữ, tuy
đã tắt thở nhưng vẫn còn hơi ấm và mặt mày vẫn tươi nhuận. Chàng quỳ xuống than
van kể lể. Người con gái sống lại và họ trở thành vợ chồng.” Bài thơ ghi lại
mối tơ duyên bất hủ nhuốm màu sắc như một huyền thoại. Bất luận thực hư thế nào
chẳng biết, nhưng chỉ biết đây là một bài thơ tình thuộc loại hiếm và đẹp của
Thôi Hộ, ý tứ phiêu bồng bảng lảng, niềm hoài cảm mang mang, âm hưởng đẹp dịu
dàng.
.
(3) Tạm dịch nghĩa bốn câu thơ trên của Thôi Hộ:
“Ngày
này năm ngoái tại cửa nầy
[Sắc
diện] hoa đào và gương mặt người cùng ánh lên sắc hồng
Gương
mặt [người xưa] không biết giờ đây [năm nay] đã ở nơi chốn nào
[Sắc
diện] hoa đào vẫn như cũ, đang cười với gió đông.”
.
(4) Nguồn: tienve.org.
.
(5)
Tóm lược Chuyện Tình Của Orphée và Eurydice:
Thần
thoại Hy Lạp kể rằng, Orphée là một thi sĩ tài hoa, con của vua xứ Thrace, có
tài đàn hát tuyệt vời. Giọng ca của chàng đã quyến rũ tất cả thần thánh, thiên
nhiên, con người , ma quỷ và cả những sinh vật khác.
Orphée
và nữ thần Eurydice đã yêu nhau thắm thiết như tri âm, tri kỷ của nhau. Họ đã
chung sống rất hạnh phúc. Rồi một ngày Orphée đi vắng, Eurydice cảm thấy cô đơn
và nhớ nhà, nên quyết định trở về thăm nhà. Khi đi ngang qua một khu rừng,Eurydice
đã bị một con rắn độc cắn chết.
Orpheé
đau đớn chôn cất Eurydice và quyết định ra đi, tìm đến Diêm Vương để mong cứu
được Eurydice.
Orpheé
gặp Diêm Vương, cất giọng hát để bày tỏ tình yêu của mình với Eurydice, làm cho
Diêm Vương động lòng thương cảm, trắc ẩn. Diêm Vương hứa sẽ cho Eurydic sống
lại, trở về sống với Orphée, với điều kiện là Orphée không được quay lại ngoái
nhìn Eurydice. Do quá nôn nóng, lo sợ Eurydice lạc dấu trên đường về, Orphée
quên lời dặn của Diêm Vương, đã quay lại ngoái nhìn. Eurydice tan biến dần
trong đêm khuya tĩnh mịch. Nàng đã chết lần thứ hai!
Quá
đau khổ, Orphée tìm cách trở lại âm phủ, nhưng đã tuyệt lộ. Chàng trở về sống
với lòng hoài niệm khôn nguôi hình bóng của Eurydice. Một hôm, có một đoàn nữ
thần uống rượu, trong cơn say, bắt gặp Orphée đang than thở mối tình tuyệt vọng
của mình. Do ghen tức với Eurydice tột độ, họ nổi giận ném đá giết chết Orphée.
Linh hồn Orphée trở xuống Âm Phủ và gặp lại Eurydice. Họ đã đoàn tụ, mãi mãi
sống bên nhau với mối tình tuyệt đẹp.