O’Henry ( 1862-1910 ) , nhà văn Mỹ, tác giả của gần 400 truyện ngắn đăng trong các nhật
báo và tạp
chí, sau được in trong mười tập truyện. Cuộc đời của Ông rất phong phú : làm nhiều nghề khác nhau ( dược sĩ, vẽ kỹ
thuật và kiến
trúc, thư ký, đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in… ), từng tham gia
ca hát, diễn kịch, vẽ hí họa, có lúc bệnh nặng, có lúc ở tù. Có lẽ vì thế mà bối cảnh các truyện ngắn của Ông cũng rất phong phú, khắc họa xã hội nước Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX. Phần lớn
truyện ngắn của Ông có cốt truyện đơn giản, với nhiều tình tiết oái oăm, khắc nghiệt, có khi khôi hài để kết thúc bất ngờ. “Chiếc lá cuối cùng” ( The last leaf ) là một truyện ngắn nổi tiếng, được
nhiều nước chọn đưa vào
sách giáo khoa.
Trong một khu phố nhỏ ở phía đông Quảng trường
Washington, các con đường
chạy ngoằn ngoèo,
cắt quãng và tạo thành những khu vực nhỏ. Những khu vực này không đều nhau, có một dáng vẻ khác thường, đầy những góc cạnh
và đường cong kỳ lạ. Một con đường
cắt ngang chính nó một hai lần. Có một họa sĩ nhìn thấy địa hình này
cũng có cái lợi. Giả dụ như khi một nhân viên thu ngân được ủy thác đi thu từ các nghệ
sĩ tiền hóa đơn giấy, khung vải
và tranh vẽ, giả dụ thế, anh ta đi quanh khu vực này và vòng lại chỗ
cũ mà không thu được đồng
xu nào !
Chính vì thế
mà chẳng bao lâu các
nghệ sĩ đua nhau kéo đến khu làng
cổ Greenwich, săn
lùng những chiếc cửa
sổ trổ hướng bắc, đầu hồi thế kỷ mười tám, gác mái của Hà Lan
và giá thuê rẻ. Sau đó họ mang đến vài hộp thiếc, một hay hai bếp lò, thế là hình
thành một khu di dân.
Ở trên
cùng một chung cư ba tầng bằng gạch hai cô gái Sue và Johnsy đặt xưởng vẽ của mình. Một cô đến từ Maine, cô kia, từ
California. Hai người gặp nhau trong một quán
ăn người Ý trên
đường Số Tám và khám
phá cả hai cùng chung sở thích về nghệ thuật, rau
diếp xoăn và ống
tay áo phồng vai nên
quyết
định thuê chung căn phòng.
Chuyện
đó xảy ra vào
tháng 5. Đến tháng 11, có một nhân vật giá lạnh và vô hình
mà các bác sĩ gọi là Viêm
Phổi lẻn vào
khu vực này,
lấy ngón tay lạnh buốt như tử thần quệt vào
nơi này nơi kia. Bên phía đông, kẻ tàn phá này táo bạo lướt tới, hạ gục đến hai mươi nạn nhân,
nhưng lại giảm
bớt tôc độ khi đi qua những
lối chật hẹp và đầy rêu.
Viêm
Phổi không thể được xem là một quý ông hào hiệp. Một cô gái đôi mươi bé nhỏ, đờ đẫn
vì những trận gió ở
California lẽ ra chẳng
phải là miếng mồi ngon cho
một lão
con buôn
rắn tay. Vậy mà hắn
vẫn tấn công Johnsy; thế là cô
nằm bẹp trên chiếc giường sắt, hầu như không cử động,
đưa mắt nhìn qua cửa
sổ bức tường trơ trụi sầu thảm của
căn nhà gạch kế bên.
Một buổi sáng, vị bác sĩ ra dấu mời Sue ra ngoài
hành lang, nhướng đôi
mày rậm, ông nói:
“Cơ may cho cô ta là một phần mười,” ông vừa nói vừa rảy cái nhiệt kế cho vạch
thủy ngân tụt xuống. “ Và cơ
may này tùy thuộc ý chí muốn sống của cô ta. Cái cách mà nhiều con bệnh chỉ chờ công ty mai
táng đến làm
cho sách thuốc nào
cũng vô dụng. Bạn của cô
cứ đinh ninh là mình
không qua khỏi.
Cô ấy có ý gì thế?”
“Chị ấy… chị ấy mong có ngày được vẽ vịnh Naples.” Sue đáp.
“Không! Không! Cái gì khác, nghiêm
túc hơn hội họa kìa.
Cô ấy có … cô ấy có bận tâm về điều gì…một
người đàn ông chẳng hạn ?”
“Một người đàn ông à ?
Sue trả
lời, giọng rung lên, “một người đàn ông thì có thể nào… mà không,
thưa bác sĩ, không có chuyện
đó.”
“ Vậy thì chỉ
là do yếu sức thôi”, vị bác sĩ nói. Tôi sẽ làm mọi cách
mà khoa học cho phép,
hoặc ít nhất là với
tất cả hiểu biết khoa học của tôi. Nhưng khi mà con
bệnh
của tôi bắt đầu nhẩm tính số lượng xe trong đoàn xe tang thì xem như hiệu lực của thuốc men đã giảm đi một nửa. Nếu cô làm cách
nào khiến cô ấy hỏi cô về tay áo măng tô của thời trang mùa đông ra sao, tôi đoan chắc
với cô là cơ may khỏi bệnh của bạn cô sẽ là một phần năm chứ không còn là một
phần mười.”
Sau khi bác sĩ đi khỏi, Sue đi vào xưởng vẽ
và khóc đau đớn. Rồi cô lau nước mắt đi vào
phòng Johnsy, tay mang
giá vẽ, miệng huýt sáo một điệu nhạc vui. Johnsy nằm không động đậy, mặt quay về phía cửa sổ. Sue ngưng huýt sáo, nghĩ là bạn đang ngủ. Cô đặt giá vẽ và bắt đầu dùng bút mực vẽ tranh minh họa cho một tạp chí. Các họa
sĩ trẻ phải tự tìm
đường đến nghệ thuật bằng cách vẽ hình minh họa cho các truyện đăng trong tạp chí, truyện mà các nhà văn trẻ viết để dọn đường đi đến
văn học.
Trong khi Sue đang phác họa cái quần bảnh bao và chiếc kính một mắt cho nhân vật chính, một chàng
cao bồi
Idaho, cô nghe một tiếng nói nhỏ, lặp đi lặp lại vài lần. Cô vội đi đến mép giường.
Mắt Johnsy mở to. Cô nhìn ra cửa sổ và đếm, đếm ngược: “Mười hai”,
rồi sau một lát:
“mười một”, sau đấy, “mười”, rồi “chín”, rồi “tám” và “bảy” gần như liền nhau.
Sue tò mò nhìn ra ngoài cửa
sổ. Có gì ở ngoài đó mà đếm? Chỉ có một khoảng sân trống,
buồn thảm và bức
tường trơ trụi của
căn nhà gạch cách đó chưa tới
mười thước. Một dây thường xuân già ,
gân guốc, cằn cỗi, leo lên đến nửa bức tường gạch. Gió thu lạnh buốt
đã vặt gần hết lá,
chỉ còn những nhánh khẳng
khiu, trơ trụi bám vào
mảng tường gạch vỡ vụn.
“Chuyện
gì thế, cô nàng?” Sue hỏi.
“Sáu,” Johnsy đáp, gần như thì thào.
“ Bây giờ chúng rụng nhanh quá.
Ba hôm trước vẫn còn
cả trăm, đếm muốn nhức đầu. Giờ thì dễ
rồi. Đấy, một chiếc nữa. Chỉ còn
có năm thôi.”
“Năm gì chứ,
cưng? Nói cho Sue của
cưng biết đi.”
“Chiếc lá.
Trên dây leo thường
xuân. Khi chiếc
cuối cùng rụng, mình sẽ ra đi. Mình nghiệm ra điều đó từ ba hôm nay. Bác sĩ
không nói cho bồ biết sao?”
“Ồ, mình
chưa bao giờ nghe chuyện tầm phào
đó,” Sue càu nhàu,
giọng giả vờ tức giận.” Mà mấy
chiếc lá thường xuân thì liên quan gì đến
việc bạn hồi phục? Mà lâu
nay bạn vẫn thích cây thường xuân mà!
Đừng ngốc nghếch thế nữa. Sáng nay ông bác sĩ nói với mình là cơ
may bạn khỏi bệnh hẳn là…,
để xem ông ấy nói gì nào, à ông
ấy nói cơ may là mười trong một! Đấy, cũng bằng với cơ may khi ở New York chúng mình đáp tàu điện hay đi bộ ngang qua một căn nhà đang xây. Cố ăn
tí cháo đi, để cho Sue vẽ
nốt tranh này rồi đem bán cho tạp chí, mua rượu vang cho cô bé đang bệnh và mua sườn heo cho nó đang thèm đây.”
“Khỏi cần
rượu vang nữa,”
Johnsy vẫn dán mắt ra ngoài cửa sổ,”Thêm một chiếc rụng nữa kìa. Không, mình không ăn cháo. Thế là chỉ còn
có bốn. Mình
muốn nhìn
thấy chiếc cuối cùng
rụng trước khi trời tối. Khi ấy mình
cũng sẽ ra đi.”
“Johnsy cưng ơi,” Sue nghiêng
mình gần bạn, “ bồ có
hứa với mình
là nhắm mắt lại và không
nhìn ra ngoài cửa
sổ nữa cho đến khi mình
vẽ xong không? Mình
phải đem giao tranh này ngay ngày mai. Mình cần ánh sáng, nếu không mình sẽ kéo rèm xuống.”
“Bạn không thể sang phòng bên
mà vẽ sao?”, Johnsy lạnh lùng hỏi.
“Mình
muốn ở bên
cạnh bạn,” Sue nói,
“ Hơn nữa, mình
không muốn bạn cứ mãi
nhìn mấy cái lá thường
xuân như thế.”
“Khi nào
bạn làm xong thì cho mình
biết,” Johnsy nói, mắt nhắm lại, tái nhợt và bất động như một pho tượng nằm dài, “ vì mình
muốn nhìn chiếc lá cuối cùng
rụng. Mình
chờ đợi mệt quá
rồi. Mình suy nghĩ mệt quá rồi Mình muốn buông xuôi tất cả, rồi rơi
xuống, quay tròn
rơi xuống như một trong những chiếc lá
mỏi mệt kia.”
“Thôi ráng ngủ đi,” Sue nói, “ Mình phải đi mời ông Berhman lên ngồi làm mẫu cho mình vẽ ông thợ mỏ già sống ẩn dật. Mình chỉ đi một phút. Đừng cựa quậy cho đến khi mình trở lại.”
Ông già Berhman
là họa sĩ sống ở tầng
trệt, bên
dưới phòng hai cô
gái. Ông ngoài
sáu mươi, có chòm
râu dài và xoăn chảy dài từ cái đầu to tướng xuống một thân hình thấp nhỏ, kiểu như ông Moses trên bức điêu khắc của Michael Angelo. Berhman là cả một sự thất bại trong nghệ thuật. Ông đã cầm cọ vẽ suốt bốn mươi năm mà chưa bao giờ mon men đến được mép ngoài của
cõi nghệ thuật. Lúc nào ông cũng muốn vẽ nên một kiệt tác nhưng chưa bao giờ bắt đầu.
Vài năm nay ông không vẽ được gì, chỉ thỉnh thoảng vài
bức tranh tồi mang tính thương mại hay quảng cáo. Ông chỉ kiếm tiền
chút đỉnh bằng cách ngồi làm
mẫu cho đám
họa sĩ trẻ không đủ tiền trả theo giá người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống rượu gin như hũ chìm và cứ
luôn nhắc đến kiệt tác sắp đến của mình.
Ngoài ra, đấy là một
ông già nhỏ thó mà dữ dằn, thường hay mạt sát cay độc thói yếu đuối của bất cứ ai, và tự coi mình là người
bảo vệ trung thành
cho hai cô họa sĩ trẻ sống ở tầng trên.
Sue tìm thấy Barhman nồng nặc mùi rượu dâu trong căn phòng tối mù ở bên dưới. Trong góc, trên giá vẽ là một khung vải trống trơn đang chờ đợi từ hai mươi lăm năm nay nét
cọ đầu tiên
của một kiệt tác. Cô cho
ông
biết ý nghĩ hão huyền của Johnsy và nói cô
rất sợ thấy cô bạn sẽ trôi đi, nhẹ nhàng và mỏng manh như một chiếc lá
khi sự bám víu sơ sài
vào trần thế yếu dần
đi.
Ông già Barhman,
với cặp mắt đỏ ngầu, thét lớn, tỏ rõ sự khinh thường và nhạo
báng những ý tưởng ngốc nghếch như thế.
“ Cái gì? Ở
đời sao lại có
người ngu ngốc muốn chết vì mấy
cái lá cây thường xuân rụng đi? Lão chưa bao giờ nghe chuyện như vậy. Không,
lão sẽ không ngồi làm mẫu cho cái ông già ẩn dật của cô đâu. Tại sao cô lại cho phép
nó nhét những ý nghĩ ngu ngốc như thế vào
trong đầu? Ôi, cái con bé
Johnsy khốn khổ!”
“Chị ấy bệnh nặng và yếu
lắm,” Sue nói,
“ và cơn sốt đã khiến
cho tâm trí chị ấy trở nên
hỗn loạn
với những hoang tưởng kỳ quái. Thôi được rồi, ông Barhman, ông không muốn ngồi
làm mẫu cũng được,
không sao cả. Nhưng tôi nghĩ ông là một lão già xấu
xa, ghê khiếp.”
“Cô đúng là cái giống đàn bà”, ông Barhman tru tréo, “ai nói là lão
không ngồi làm
mẫu? Đi lên
đi, lão sẽ đi với cô. Cả nửa tiếng đồng hồ lão đã nói là lão
sẵn sàng ngồi làm mẫu. Trời ơi, đây không phải là chỗ một người tử tế như cô Johnsy nằm dưỡng
bệnh được. Một ngày
nào đó lão sẽ vẽ một kiệt tác và chúng ta sẽ dời đi nơi khác. Phải như vậy
thôi.”
Johnsy đang ngủ khi họ lên.
Sue hạ
tấm rèm xuống và ra
dấu cho ông
Barhman theo cô sang phòng
bên. Ở đó, xuyên qua cửa sổ họ nhìn dây thường xuân, lòng cảm thấy lo sợ. Rồi cả hai nhìn nhau môt lúc mà không ai nói gì. Một cơn mưa lạnh lẽo vẫn tiếp tục rơi, hòa cùng với tuyết. Ông Barhman, mặc chiếc
sơ mi cũ màu xanh, ngồi
lên một cái ấm nước đặt lộn ngược giả làm tảng đá để làm mẫu ông thợ mỏ ẩn cư.
Sáng hôm sau khi Sue thức dậy sau chừng một giờ ngủ mê, cô thấy Johnsy đang nhìn tấm rèm đã buông xuống với đôi mắt đờ đẫn mở to.
“Kéo rèm
lên đi, mình muốn nhìn một chút,”
cô thì thào ra lệnh.
Sue uể
oải làm theo lời bạn.
Nhưng, kìa!
Mặc dù trận mưa vùi dập và những
cơn gió dữ dội đã kéo dài
liên tục suốt
đêm hôm qua, vẫn
còn một chiếc lá thường xuân bám vào bức tường gạch. Đó là chiếc lá
cuối cùng của dây leo. Cuống lá vẫn màu xanh thẫm, rìa mép hình
răng cưa đã nhuốm màu
vàng úa, nó vẫn hiên ngang bám
vào cái cành
cao cách mặt đất.gần bảy thước.
“Đó là chiếc lá cuối cùng,”
Johnsy nói.” Mình
nghĩ là đêm qua nó đã rụng
rồi. Mình nghe gió thổi dữ
lắm. Hôm nay nó sẽ rụng, và lúc
đó mình cũng sẽ ra đi.”
“ Cưng ơi, cưng ơi!”, Sue vừa nói vừa dúi khuôn mặt mệt
mỏi xuống chiếc gối, “ hãy
nghĩ đến mình,
nếu bạn không nghĩ đến bản thân. Mình
sẽ ra sao nếu không có bạn?”
Nhưng Johnsy không trả lời. Cái điều thảm thiết nhất trên đời là một linh hồn chuẩn bị cho một chuyến đi bí ẩn, xa xăm. Ý nghĩ hoang tưởng ám ảnh cô ta ngày càng
mãnh liệt hơn khi mà những sợi dây níu cô ta với tình bạn và trần gian ngày càng
lơi lỏng.
Ngày
dần trôi, đến lúc hoàng
hôn họ vẫn thấy chiếc lá thường
xuân trơ trọi bám vào cuống dính vào tường. Và rồi, khi đêm xuống, gió bấc lại thổi, mưa vẫn đập vào
cửa sổ, nước mưa tuôn xối xả dọc theo khung cửa kính.
Khi trời vừa hừng sáng, con người lạnh lùng lại đòi kéo tấm rèm lên.
Chiếc lá thường
xuân vẫn còn
đó.
Johnsy nằm nhìn chiếc lá
trong giây lát.
Rồi cô lên tiếng gọi Sue khi bạn đang khuấy nồi súp
gà trên bếp ga.
“Mình
là đứa hư, Sue à”, Johnsy nói, “ Có điều gì đó đã khiến cho chiếc lá vẫn bám ở đấy để cho mình hiểu là mình
tệ hại đến mức nào.
Muốn chết là
điều tội lỗi. Bây giờ bạn có thể đem
cho mình một chút cháo, và ít sữa pha chút rượu
vang, và – à không,
trước hết hãy mang cho mình
chiếc gương soi cầm
tay, rồi kê giùm mình
mấy cái gối, mình
sẽ ngồi dậy nhìn
bạn nấu nướng.”
Một giờ sau, cô nói:
“ Sue
à, mình
hy vọng có ngày
vẽ được vịnh Naples.”
Buổi chiều
vị bác sĩ ghé đến, khi ông ra về, Sue có cớ để đi ra ngoài hành
lang.
“ Cơ may ngang bằng,” bác sĩ cầm bàn tay gầy guộc và run rẩy của Sue và nói,
“ ráng chăm sóc thì cô
sẽ thắng. Bây giờ tôi phải đi thăm người bệnh khác ở tầng dưới, tên là Berhman - chừng đâu là một nghệ sĩ gì đó, tôi nghĩ thế. Cũng Viêm Phổi. Một ông lão già nua
yếu
đuối, cơn bệnh lại là cấp
tính. Không còn
hy vọng gì cho ông ta, nhưng vẫn phải đưa vào bệnh viện để được tiện nghi hơn.”
Ngày
hôm sau bác sĩ nói với Sue: “ Qua cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Ăn uống bồi bổ và chăm sóc chu đáo, bây giờ chỉ cần thế thôi.”
Chiều hôm đó, khi Sue đến gần giường, Jonhsy đang vui vẻ đan chiếc khăn quàng với những sợi len xanh, cô vòng tay ôm lấy cổ bạn, rồi ôm chiếc gối.
“ Mình
có chuyện
này nói với bạn, con chuột bạch ạ,” Sue nói. “ Ông Barhman qua đời hôm nay ở bệnh viện vì chứng viêm
phổi. Ông chỉ mới nhuốm bệnh hai hôm nay thôi. Sáng ngày đầu tiên người gác dan tìm
thấy ông trong căn phòng
tầng dưới, có vẻ đau đớn
lắm. Đôi giày và quần
áo ướt đẫm, lạnh như đá. Không ai
nghĩ
ra ông đã đi đâu vào
cái đêm gió mưa kinh khủng như vậy. Rồi người ta phát hiện cây đèn bão, vẫn còn cháy sáng, và một cái thang đã được kéo ra khỏi nơi cất giữ, và vài cây cọ vứt bừa bãi dưới đất, và chiếc khay vẽ pha trộn hai màu xanh và vàng,
và – bạn nhìn ra ngoài cửa
sổ đi, nhìn
cái lá thường xuân cuối cùng
trên tường đó. Bạn có thắc
mắc tại sao nó không hề lung
lay động
đậy gì khi gió thổi
không? Ôi, cưng ơi, đó là kiệt
tác của ông Barhman đấy – ông đã vẽ nó đúng vào
cái đêm mà chiếc lá cuối cùng
rụng xuống.”
THÂN
TRỌNG SƠN