Người
ta nhớ đến ông dưới bút hiệu Nguyên Sa, một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ cuối
thập niên 50. Thơ ông với những bài Aó lụa
Hà đông, Paris có gì lạ không em, Tuổi
13, Tháng sáu trời mưa … đã làm xao động nhiều con tim ở tuổi học trò và về
sau khi được chấp cánh bằng những dòng nhạc đồng cảm của Ngô Thụy Miên thì phải
nói sự phổ biến của nó đã là những nét sinh hoạt thi ca làm nhẹ đi tính ác liệt
của chiến tranh vào đầu những năm ‘70 và đọng lại phần nào chất trữ tình lãng mạn
của những tâm hồn vốn coi thơ và nhạc là những nhu cầu cần có trong bối cảnh một
xã hội và đất nước đang đi vào mạt vận.
Nhân
vật này giới học sinh quen gọi là thầy Trần Bích Lan, một ông thầy chuyên dạy
Triết năm cuối cùng của bậc trung học - một môn học mà đa phần học sinh đều
‘xanh mặt’ vì tính trừu tượng khô khan của nó và nhất là những thí sinh vừa hoàn
tất bằng Tú tài 1 lại càng lo lắng vì sự cho điểm nhỏ giọt của các giám khảo môn
Triết mà nếu đạt được điểm trung bình trong kỳ thi toàn phần thì cũng là một thành
quả đáng khen cho các cậu tú cô chiêu.
Cho
nên đa phần các thí sinh muốn chắc ăn cho đủ điểm đậu, không gì hiệu quả bằng
ghi danh vào các lớp luyện thi, tại tư gia hoặc tư thục khi người đứng kèm có tên
Trần Bích Lan, một giáo sư trẻ vừa từ Pháp về, lại có sách giáo khoa do chính ông
ta soạn cho hai môn Lý luận học và Tâm lý học, được coi như cẩm nang cho môn
Triết lớp 12 mà hồi đó còn gọi là năm Đệ Nhất.
Tôi
được học thầy do một sự tình cờ nhờ người bạn học Chu Văn An cho biết niên khóa
58-59 thầy Trần Bích Lan sẽ về dạy môn Triết. Số lớp rất hạn chế vì chủ yếu dành
cho học sinh của trường, chỉ còn hai lớp mở thêm để nhận những ai đã có bằng Tú
Tài 1 và từ trường công chuyển sang. Tư thục thì vô phương. Tôi trong số những
người chót được nhận vào Lớp A6 đều là dân ‘tứ xứ’ nghe tiếng thầy đổ về ghi
danh. Tôi thở phào vì không đủ tiền học lớp dạy kèm của thầy, nhưng cũng buồn vì
xa trường cũ gắn bó từ hồi lớp 6, cũng là trường trung học nổi tiếng nằm sát bên
hông.
Học
hành thời buổi này như đánh đu với tử thần,
rớt tú tài anh đi trung sĩ/em ở nhà lấy Mỹ nuôì con, nên chúng tôi bảo nhau
cố mà đậu nếu phải đi lính thì vắt vai cũng có một trung đội phòng thân.Tôi nhớ
niên khóa ấy cả lớp đều đậu, chỉ có một người rớt nhưng anh ta thi lại kỳ 2, đậu.
Cho nên quả không ngoa khi có ai nói học thầy ‘Big’ Lan (để phân biệt với thầy
giám thị trùng tên vốn nhỏ con) thì chỉ một năm là đủ, không cần gặp lại thầy năm
thứ hai. Cuối năm ấy tôi xa thầy, sau đi lính, đi tù và tình cờ gặp lại thầy ở
quận Cam khoảng giữa thập niên 90, trước khi thầy qua đời vài ba năm sau đó.
Chỉ
một năm được gần ông giáo có người yêu tên Nga, một nữ sinh viên cùng học ở Pháp,
vừa ca ngợi bằng những vần thơ bóng bẩy mượt mà người về sau là vợ mình bằng các
ngôn từ đầy mầu và sắc:
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
(Tháng
Sáu Trời Mưa)
Nguyên
Sa là nhà thơ gây ngạc nhiên một thời về những câu thơ phá thể, những hình tượng
ví von ít ai đưa vào thơ, nhất là người ấy là Nguyên Sa và khuôn mặt mà tên gọi
được ghép (theo tôi duy diễn) từ hai âm đầu và cuối bút hiệu của ông:
Hôm nay Nga buồn
như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ…
…
Nhớ
Thầy không dám lạm bàn về Thơ, chỉ biết thơ ông phổ biến trong giới trẻ, đặc biệt
là các nữ sinh mà nhiều cô không được học thầy và biết dung nhan thầy đơn giản
vì rơi rớt ở cấp tú tài 1. Tôi vốn mê và hay chép tay các bài thơ tiền chiến, lúc
này lại có vụ Nhân văn giai phẩm nên hay đọc Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần.
Từ
khi có hiện tượng Nguyên Sa xuất hiện trong thi ca miền Nam thì phải nói tự nó đã
dấy lên một luồng gió tươi mát và những hình tượng trong thơ từ đây có thêm Áo lụa Hà Đông, Mưa nắng Sài gòn, Paris/sông
Seine, trùng hợp với Cung Trầm Tưởng cũng từ Pháp về đã làm đám học trò chúng
tôi vừa mê thơ vừa tò mò đi tìm tác giả, nam sinh không nói làm gì nhưng các tiểu
thư tuổi ô mai trở lên rất thần tượng thi nhân.
Thầy
Trần Bích Lan cũng là một hiện tượng trong giới mô phạm, có thể vì thầy là một
nhà thơ và dạy môn hiếm người đi vào chuyên nghiệp. Chưa hẳn, thi nhân họ Vũ cũng
niên học này đang dạy bên lớp đệ nhị C (ban văn chương), nhưng học trò vẫn trọng
và yêu thầy vì thơ chứ không vì tay nghề sư phạm. Trong khi ở Sài Gòn tên tuổi
những ông thầy, Việt văn (Lưu Trung Khảo),Triết (Trần Bích Lan), Anh văn (Nguyễn
Ngoc Linh), Pháp văn (Bùi Hữu Sủng), Toán (Nguyễn Văn Phú),… thì phải nói như
những tên cúng cơm trong giới học trò khi cần phải luyện thi để lấy cái ‘bằng lái’
đầu đời.
Với
thơ tôi trộm nghĩ thầy làm thơ là do động cơ thúc đẩy từ mối tình viễn xứ với
người yêu cũng là bạn học mà tôi quen nhiều cặp yêu nhau trong cảnh này bền duyên
đến ngày về cõi nhưng đưa đẩy thế nào dạy học mới là nghề kiếm sống và người ta
nhắc khá nhiều về thầy trong môi trường giáo dục, dù thầy có làm chủ biên một tạp
chí văn học và sáng tác thêm những bài thơ mới sau giai đoạn Paris có gì lạ không em.
Thầy
có lối dạy rất lạ dù chẳng tốt nghiệp trường sư phạm nào (mà về sau có thời đi
ngành này tôi cố bắt chước để câu học trò nhưng vẫn không thể). Vào lớp Thầy chỉ
có viên phấn và bảng đen, cái cặp da tôi biết chắc vì tôi ngồi đầu bàn chỉ có tập
giấy (có thể bản thảo) chứ không đựng sách giáo khoa, giáo án, trong khi cái cartable
của thầy Vũ thì gần bằng sức nặng của tác giả Thơ Say.
Với
thầy phấn phải nguyên cục, bảng phải lau sạch, viên phấn chỉ xài nửa cục rồi cầm
viên khác, cầm phấn như cầm cọ, tấm bảng như pa-nô, thầy minh họa lời bằng chữ
viết, nét chữ thầy không bay bướm nhưng rất rõ nét chân phương, thầy có tài vẽ
vòng tròn bằng chỉ một nét, tròn hơn cả com-pa, chính vậy các từ ngữ về triết
trừu tượng khó hiểu cách mấy thầy vẫn làm thành đơn giản, dễ hiểu, nhập tâm. Môn
học có khô khan nhưng thầy có óc hài hước khá tinh tế pha lẫn các mẩu giai thoại
dí dỏm về thơ và những ngày ở Paris, lớp A6 chúng tôi dần đầu về sĩ số tham dự
cao cả năm.
Dù
mới về nước sau khi ở Paris cả 7 năm trời nhưng ngôn ngữ của thầy vẫn thuần Việt,
ông ít khi pha tiếng Pháp để diễn giải thêm những thuật ngữ triết học. Nếu cho
thầy dậy Việt văn chắc cũng hay. Tôi vẫn nhớ mấy mẫu tự in A,B thầy gọi A lớn B
lớn, nhưng abcd dùng cho các tiểu mục thầy hay gọi a (nhỏ), b (bé), c (con), d
(non) để học trò chúng tôi dễ phân biệt cho vui.
Giọng
thầy người Hà Nội, âm lượng vừa đủ, vang nhưng ấm, những chỗ thầy nhấn phải chú
ý, key notes, key words ở những chỗ này, về sau lên đại học tôi mới quen lối giảng
của thầy. Thầy không cho bài tập, về nhà đọc thêm sách thầy in, tất cả đã nằm
trên bảng, tiếp thụ những điều thầy nói trong lớp là đủ, anh nào ngủ gật thì ráng
chịu. Nói vậy chứ chả ai dám, ngược lại sức hấp dẫn của lối giảng và sự tiếp cận
với Triết học nhập môn nhờ thầy mà anh em chúng tôi yên tâm đi vào kỳ thi cuối
năm.
Năm
học ấy qua đi. Những ngày xưa thân ái đi dần vào dĩ vãng. Không chờ đến tháng
sáu, thầy mất vào một ngày của tháng tư trên đất Cali. Tôi vẫn nhớ hình bóng của
thầy như một người quen chơi gôn, mà chiếc mũ trên đầu thầy hay đội. Trắng tay
sau khi vốn liếng đầu tư mở hai trường tư thục (Văn Học và Văn Khôi), ra hải
ngoại thầy làm ‘báo Đời để sống. Nhớ lại lần gặp ở quận Cam, tôi đang ngồi với
mấy người bạn trong quán cà phê khu Phước
Lộc Thọ, một người chỉ tay và nói ông Nguyên Sa vừa đi qua.
Tôi
vội vã theo dấu chân thầy, tự giới thiệu là người học trò cũ. Nói truong2 Chu
Văn An, thầy nhớ ra ngay.Thầy hỏi sang lâu chưa, tôi đáp mới sang, hỏi tiếp chắc
đi tù, dạ phải, mấy năm, hơn 12 năm. Thầy vốn kiệm lời khi nói về chính trị, hồi
tôi học thầy cũng ít nhắc đến các lọại chủ nghĩa. Đi lính đủ điều kiện về ngành
tôi, chắc ngại làm thơ tâm lý chiến (dù có viết một bài Sân Bắn khi vào Thủ Đức),
thầy đi ngành…tẩm liệm tử sĩ (đơn vị Chung sự vụ, thầy có viết một truyện dài).
Thầy móc bóp tưởng lấy danh thiếp, thầy dúi vào túi tôi chút tiền mặt, thầy mắc
bận phải đi, cầm chút tiền uống cà phê, cần gặp cứ bảo người ta chỉ cho. Tôi
hơi đỏ mặt, thầy đi, cái dáng như một người có bệnh, mà thầy bệnh thật, ít năm
sau thầy qua đời.
Tôi
quay lại chỗ bạn khoe ông thầy vừa cho tiền, hồi xưa nhận tiền kiểu này dễ mặc
cảm bị coi thường nhưng sau 75, hiểu theo nghĩa cho nhau là quí dù nhà thơ như
thầy lãng mạn đến đâu cũng biết tập quán này. Số tiền nhỏ vậy mà được việc, bốn
tờ hai chục (ví thầy chỉ có thế với ít tiền lẻ), tôi chi một nửa đãi chầu cà
phê, còn lại mua vài cuốn thơ và băng đĩa tiểu bang tôi ở kiếm hoài không ra.
Cá
nhân tôi còn một món nợ với thầy khi làm một bài thơ để nhắc nhớ ngày ‘tháng
sáu 13’ chúng tôi đi trình diện học tập cải tạo, lúc này là mùa mưa, bài thơ mang tên Tháng sáu trời mưa, không ngờ cái tựa vô
tình trùng với bài thơ nổi tiếng của Thầy. Để tạ lỗi tôi có làm tiếp Mưa Sài gòn, Nắng hạ Cali cả hai bài đều
được post trên vài trang mạng văn học, trong đó có mấy câu:
Giờ này
Sài Gòn đang mưa
Lại nhớ tháng sáu
Tháng sáu trời mưa
Mưa của Nguyên Sa
Một thời áo lụa
Đẹp. Buồn. Ấp ôm kỷ niệm.
Nhớ
Thầy, viết về Thầy, Thầy Bích Lan là như thế. Ông đi vào văn học sử như một nhà
thơ lớn, và với đám học trò chúng tôi vẫn coi ông như một nhà giáo dục nhân
bản, một người thầy giản dị dễ mến, yêu nghề và không gì vui hơn là thấy học
trò của mình thành đạt, phục vụ tốt cho đời cho xã hội bất kể nơi đâu.
Đỗ Xuân Tê
February 2015
Chú thích: Thi sĩ Nguyên Sa (tên thật Trần Bích Lan) sinh ngày
1/3/1932 tại Hà Nội, mất ngày 18/4/1998 tại Mỹ. Trong cuốn hồi ký của mình, ông
viết: “Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó
là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản
ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có,
và bản ngã muốn có. Những bài thơ khác biệt mang lại bản ngã khác biệt…”.