NGUYỄN LƯƠNG VỴ
chuyển dịch thơ Việt
MƯỜI
BÀI THƠ MÙA XUÂN
CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Vua
Trần Nhân Tông
sơn
dầu trên bố 80 x 100 cm
dinhcuong
I. LỜI GIỚI
THIỆU:
Trần Nhân Tông (chữ
Hán: 陳仁宗; 7 tháng
12 năm 1258 – 16
tháng 12 năm 1308,)
là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái
Thượng hoàng 15 năm.
Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một
trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan
trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt
lần 2 và lần 3.
Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu Đà Hoàng Giác Điều Ngự. (Tham khảo từ trang Web. Vikipedia.org VN.)
“… Theo sử sách còn ghi được, Trần Nhân
Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần
Nhân Tông Thi Tập, Đại
Hương Hải Ấn Thi Tập, Tăng
Già Toái Sự, Thạch
Thất Mỵ Ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh,
loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài,
hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập. So
với nhiều nhà thơ khác thời Lý – Trần, số lượng ấy kể cũng đã không phải là
nhỏ.” (Trích từ bài viết của Nguyễn Huệ Chi và Trần Thị Băng Thanh, ngày 27.08.2012,“Sự thống nhất giữa hoàng đế, thi nhân và thiền gia trong một nhân cách
- Trần Nhân Tông” trên trang trannhantong.net)
II.
PHẦN DỊCH THƠ:
10
bài thơ có nội dung mùa Xuân được tuyển dịch dưới đây, trích từ bản PDF của sách Thơ Văn Lý-Trần, tập 2, NXB
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977. Phần dịch nghĩa, ghi chú, có hiệu đính thêm một
vài ý chưa rõ nghĩa, hoặc thiếu phần Hán văn.
Mỗi
bài thơ được trình bày theo thứ tự:
.
Nguyên văn bài thơ chữ Hán
.
Phiên âm
.
Dịch nghĩa
.
Ghi chú
.
Phỏng dịch thơ Việt
***
1.春 曉
Phiên
Âm:
XUÂN
HIỂU
Thụy
khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
Dịch Nghĩa:
SỚM
XUÂN
Ngủ
dậy mở cánh cửa sổ,
Không biết mùa xuân đã về.
Có một đôi bướm trắng,
Vỗ vỗ cánh, bay đến gần với hoa.
Không biết mùa xuân đã về.
Có một đôi bướm trắng,
Vỗ vỗ cánh, bay đến gần với hoa.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
SỚM
XUÂN
Ngủ
dậy, mở cửa trông
Nào
hay Xuân mênh mông
Kìa
một đôi bướm trắng
Vỗ
vỗ cánh vờn bông!
2. 春 日 謁 昭 陵
Phiên
Âm:
XUÂN
NHẬT YẾT CHIÊU LĂNG
Tì
hổ thiên môn túc,
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
Dịch Nghĩa:
NGÀY
XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG
Lính
thị vệ như cọp, đứng nghiêm túc trước ngàn cửa,
Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm.
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay,
Thường nhắc lại chuyện Nguyên Phong đã qua rồi.
Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm.
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay,
Thường nhắc lại chuyện Nguyên Phong đã qua rồi.
Ghi Chú:
. Chiêu
lăng [昭 陵]: Lăng vua Trần Thái Tông (chữ
Hán: 陳太宗; 10 tháng
7, 1218 – 5 tháng 5,
1277), tên thật là Trần Bồ [陳蒲,]
sau đổi thành Trần Cảnh [陳煚,] là
vị hoàng đế đầu tiên của nhà
Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 - 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Thái Tông là
cha của Trần Thánh Tông và là ông nội của Trần Nhân Tông.
. Chuyện
Nguyên Phong [元豐]: Trần Thái Tông,
nguyên tên thật là Trần Cảnh, là vua thứ nhất của nhà Trần. Ông sinh ngày
17.07.1218, mất ngày 04.05.1277. Ông làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59
tuổi. Khi lên làm vua năm 1226, Trần Cảnh đổi niên hiệu là Kiến Trung; năm
1232, đổi là Thiên Ứng Chính Bình; năm 1251, lại đổi là Nguyên Phong.
Ngày
17.01.1258, (niên hiệu Nguyên Phong thứ 7) quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình
Lệ (phía nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ). Trần Thái Tông chỉ huy cuộc chiến
đấu chống giặc. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư tả: "Vua tự làm tướng đốc chiến đi
trước, xông pha tên đạn…".
Ngày
29.01.1258, Trần Thái Tông cùng thái tử Hoảng (sau là vua Trần Thánh Tông) đã
phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại Thăng Long, kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Trần Thái Tông đã đi vào lịch
sử như một vị vua anh hùng cứu nước. Chiến công hiển hách của quân dân nhà Trần
đánh tan cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên Mông được sử sách đời đời
ghi nhớ như một điểm son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm đầy oanh liệt
của của dân tộc ta.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
NGÀY
XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG
Ngàn
cửa, uy nghiêm lính
Bảy
phẩm, chỉnh tề quan
Sĩ
tốt bạc đầu nhắc
Chuyện
Nguyên Phong còn vang.
3. 洞 天 湖 上
Phiên
Âm:
ĐỘNG
THIÊN HỒ THƯỢNG
Động
thiên hồ thượng cảnh,
Hoa thảo giảm xuân dung.
Thượng đế liên sầm tịch,
Thái thanh thì nhất chung.
Hoa thảo giảm xuân dung.
Thượng đế liên sầm tịch,
Thái thanh thì nhất chung.
Dịch Nghĩa:
TRÊN
HỒ ĐỘNG THIÊN
Quang
cảnh hồ Động Thiên,
Hoa cỏ [có vẻ] giảm sút nét xuân tươi.
Trời thương xót nỗi hiu quạnh [nơi nầy],
Thỉnh thoảng điểm một hồi chuông giữa tầng biếc.
Hoa cỏ [có vẻ] giảm sút nét xuân tươi.
Trời thương xót nỗi hiu quạnh [nơi nầy],
Thỉnh thoảng điểm một hồi chuông giữa tầng biếc.
Ghi Chú:
Hồ
Động Thiên: Tra cứu các từ điển không tìm thấy. Trong sách Thơ Văn Lý Trần (NXB
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977,) phần chú thích cũng ghi: “chưa rõ ở đâu.”
Phỏng Dịch Thơ Việt:
TRÊN
HỒ ĐỘNG THIÊN
Cảnh
trên hồ Động Thiên
Dáng
xuân gầy hoa cỏ
Trời
thương xót niềm riêng
Một
hồi chuông xanh tỏ.
4. 春 景
Phiên
Âm:
XUÂN
CẢNH
Dương
liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Dịch Nghĩa:
CẢNH
XUÂN
Trong khóm hoa dương liễu rậm rạp, tiếng chim hót lời chậm rãi,
Dưới bóng hiên nhà trưng bày tranh vẽ, bóng mây chiều lướt bay.
Khách đến chơi không hỏi việc đời,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh biếc trên trời.
Trong khóm hoa dương liễu rậm rạp, tiếng chim hót lời chậm rãi,
Dưới bóng hiên nhà trưng bày tranh vẽ, bóng mây chiều lướt bay.
Khách đến chơi không hỏi việc đời,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh biếc trên trời.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
CẢNH
XUÂN
Chim
chậm lời ca, liễu nở đầy
Hiên
tràn bóng lộng, mây chiều bay
Khách
đến, chuyện đời không hỏi nữa
Cùng
tựa lan can ngắm biếc ngày.
5. 春 晚
Phiên Âm:
XUÂN VÃN
Niên
thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Dịch Nghĩa:
CHIỀU
XUÂN
Thuở nhỏ chưa từng hiểu thấu lẽ Sắc Không,
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi chuyện lòng trong trăm hoa.
Ngày nay đã thấy rõ được bộ mặt chúa Xuân [đông hoàng],
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa hồng rơi rụng.
Thuở nhỏ chưa từng hiểu thấu lẽ Sắc Không,
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi chuyện lòng trong trăm hoa.
Ngày nay đã thấy rõ được bộ mặt chúa Xuân [đông hoàng],
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa hồng rơi rụng.
Ghi Ghú:
.
Đông Hoàng [東皇]: cũng gọi là Đông Quân [東君,] (ông vua của
mùa Xuân.) Trong bài thơ Lập Xuân Hậu Thi [立春後詩] của Vương Sơ [王初] có câu: 東君坷佩嚮珊珊 - 青馭多時下九關 (Đông
quân kha bội hưởng san san / Thanh ngự đa thì hạ cửu quan. Dịch nghĩa: Chúa Xuân đeo ngọc kêu leng keng / Cưỡi ngựa xanh nhiều lúc đi xuống
chín cửa quan).
. Bồ đoàn [蒲團]: Tấm lót để ngồi bằng cỏ bồ, hình
tròn. Ngày xưa, các vị sư thường dùng trong lúc ngồi thiền hay lễ bái.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
CHIỀU
XUÂN
Thuở
nhỏ chưa thấu lẽ Sắc Không
Xuân
phơi trăm đóa gửi chuyện lòng
Gương
mặt chúa Xuân nay đã tỏ
Nệm
cỏ ngồi xem rụng cánh hồng.
6. 饋 張 顯 卿 春 餅
Phiên
Âm:
QUỸ
TRƯƠNG HIỂN KHANH XUÂN BÍNH
Giá chi vũ bãi, thí xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.
Dịch Nghĩa:
TẶNG
BÁNH NGÀY XUÂN CHO TRƯƠNG HIỂN KHANH
Múa bài múa giá chi xong rồi, [mặc] thử tấm áo ngày xuân,
Huống nữa hôm nay lại gặp tiết [hàn thực] mồng ba tháng ba.
Bánh rau mùa xuân, như ngọc hồng bày biện đầy mâm,
Đó là phong tục của nước An Nam [ta] từ xưa.
Múa bài múa giá chi xong rồi, [mặc] thử tấm áo ngày xuân,
Huống nữa hôm nay lại gặp tiết [hàn thực] mồng ba tháng ba.
Bánh rau mùa xuân, như ngọc hồng bày biện đầy mâm,
Đó là phong tục của nước An Nam [ta] từ xưa.
Ghi chú:
.
Trương Hiển Khanh: Tức Trương Lập Đạo [張立道] sang sứ nước ta hai lần. Lần thứ nhất, vào năm 1265 để “tuyên dụ” chiếu chỉ của vua nhà Nguyên (vua
Trần Thái Tông đã làm thơ tiễn trong dịp nầy.) Lần thứ hai, vào năm 1291 (dưới
triều vua Trần Nhân Tông,) nhằm dụ vua nước ta qui phục và buộc vua Trần Nhân
Tông phải sang chầu Bắc triều nhà Nguyên. Do kết quả ba lần nước ta chiến thắng
oanh liệt giặc Nguyên-Mông, do thái độ mềm mỏng nhưng đỉnh đạc, kiên quyết của
các vua nhà Trần, Trương Hiển Khanh buộc phải có thái độ kính nể. Trong bài thơ
họa đáp với vua Trần, Trương Hiển Khanh đã viết:
安南雖小文章在。
未可輕談井底蛙.
An
Nam tuy tiểu văn chương tại
Vị
khả khinh đàm tỉnh để oa
(Nước
An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương,
Chưa
thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng)
.
Tam nguyệt tam [三月三]:
Ngày mồng Ba tháng Ba, thường gọi là tiết Thanh Minh, cũng gọi là Tết hàn thực,
là ngày đi tảo mộ sau Tết Âm lịch.
.
Thái bính [菜餅]:
Bánh rau. Một loại bánh bột làm với rau. Có thể là một loại bánh khúc ở thôn
quê miền Bắc ngày xưa.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
TẶNG
BÁNH NGÀY XUÂN CHO TRƯƠNG HIỂN KHANH
Giá
Chi múa xong, thử áo xuân
Lại
thêm hàn thực, tiết thanh nhuần
Bánh
rau như ngọc hồng ăm ắp
Tục
Việt từ xưa đẹp bội phần.
7. 山 房 漫 興 其 二
Phiên Âm:
SƠN
PHÒNG MẠN HỨNG KỲ NHỊ
Thị
phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Dịch Nghĩa:
MẠN
HỨNG TẠI SƠN PHÒNG LẦN HAI
Nghĩ
chuyện thị phi rơi rụng cùng với hoa buổi sáng,
Lòng [ham] danh lợi lạnh theo trận mưa đêm.
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non im vắng,
Một tiếng chim kêu, [thế rồi] lại cảnh xuân tàn.
Lòng [ham] danh lợi lạnh theo trận mưa đêm.
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non im vắng,
Một tiếng chim kêu, [thế rồi] lại cảnh xuân tàn.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
MẠN
HỨNG TẠI SƠN PHÒNG LẦN HAI
Phải
quấy rụng cùng hoa buổi sáng
Lợi
danh lạnh theo mưa ban đêm
Mưa
tạnh hoa tàn, núi im vắng
Một
tiếng chim kêu, xuân úa thêm.
8. 登 寶 臺 山
Phiên
Âm:
ĐĂNG
BẢO ĐÀI SƠN
Ðịa
tịch đài du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ [ngữ] tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận.
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm dữ [ngữ] tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh
nguyệt mãn hung khâm.
Dịch Nghĩa:
LÊN
NÚI BẢO ĐÀI
Đất [nơi đây là nơi] hẻo lánh, [nên] đài [càng] thêm cổ kính,
Theo thời tiết, mùa xuân [nơi đây] về chưa lâu.
Núi mây [nhìn] như xa, như gần,
Ngõ hoa nửa rợp bóng, nửa nắng chiếu.
Muôn việc như nước tuôn [theo] nước,
Trăm năm lòng lại nhủ lòng.
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo quý như ngọc,
Ánh trăng sáng rơi đầy trước ngực.
Ghi Chú:
Bảo
Đài sơn [寶 臺 山]: Núi Bảo Đài. Địa danh
nầy trùng tên rất nhiều nơi, còn có tên khác là Long Đại, thuộc châu Ái; ở Bảo
Lộc cũng có; ở xã Động Mạc, huyện Vọng Danh, huyện Đông Triều, Hải Dương cũng
có. Núi Bảo Đài trong bài thơ nầy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là ngọn
núi thuộc dãy núi ở Yên Tử, huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
LÊN
NÚI BẢO ĐÀI
Đất
vắng, lầu càng cũ
Xuân
mới về chưa lâu
Bóng
xa gần mây núi
Ngõ
hoa rợp nắng chao
Nước
trôi hoài thế sự
Lòng
nhủ mãi kiếp nào
Lan
can nâng sáo quý
Ngực
sáng ánh trăng cao.
9. 早 梅 其 一
Phiên
Âm:
TẢO
MAI KỲ NHẤT
Ngũ
xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!
Dịch Nghĩa:
MAI
SỚM LẦN MỘT
Năm cánh hoa tròn thơm, nhụy hoa điểm sắc vàng,
[Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi.
Cành hoa trắng xóa suốt ba tháng đông,
Sang đầu xuân, chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ.
Sương ngọt chảy mùi thơm, làm con bướm tỉnh giấc say đắm,
Ánh sáng ban đêm như nước, khiến con chim khát nước buồn bã.
Nếu Hằng Nga biết được dáng vẻ xinh đẹp của hoa mai,
Thì chẳng ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.
Năm cánh hoa tròn thơm, nhụy hoa điểm sắc vàng,
[Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi.
Cành hoa trắng xóa suốt ba tháng đông,
Sang đầu xuân, chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ.
Sương ngọt chảy mùi thơm, làm con bướm tỉnh giấc say đắm,
Ánh sáng ban đêm như nước, khiến con chim khát nước buồn bã.
Nếu Hằng Nga biết được dáng vẻ xinh đẹp của hoa mai,
Thì chẳng ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.
Ghi Chú:
.
Hằng Nga [姮娥]: Theo sách cổ Hậu Hán Thư
[後漢書], trong tích Hậu Nghệ [后羿] có
vợ là Hằng Nga [姮娥] còn có tên là Thường Nga [嫦娥]
lấy trộm thuốc của chồng rồi bay lên cung trăng, bị đọa thành con cóc (thiềm
thừ.) Từ đó, cung trăng cũng có tên là “cung Thiềm.”
.
Quế [桂]: Theo sách cổ Dậu Dương
Tạp Trở [酉陽雜俎] chép rằng: Trong trăng có
cây quế, cao 500 trượng. Vì thế, “quế” cũng là tên gọi của mặt trăng.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
MAI
SỚM LẦN MỘT
Tròn
xoe năm cánh, nhụy vàng phơi
Chìm
bóng san hô, vảy cá trồi
Đông
ba tháng lạnh cành im trắng
Xuân
một ngày hanh nhánh ấm ngời
Sương
ngọt nức hương lay bướm dậy
Đêm
ngời ánh nước khiến chim sầu
Hằng
Nga nếu biết hoa mai đẹp
Bóng
quế cung thiềm sẽ chán thôi.
10. 早 梅 其 二
Phiên
Âm:
TẢO
MAI KỲ NHỊ
Ngũ
nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn [căn].
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Họa long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn [căn].
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Họa long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân.
Dịch Nghĩa:
MAI
SỚM LẦN HAI
Năm
ngày sợ rét, lười ra khỏi cửa,
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Cành hoa trĩu xuống đầu cành, hơi ấm chưa phân định rõ.
Giọng ca chim Thuý vũ lắng chìm [theo] ánh trăng ở quán trọ trong núi.
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng người xưa,
Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được.
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Cành hoa trĩu xuống đầu cành, hơi ấm chưa phân định rõ.
Giọng ca chim Thuý vũ lắng chìm [theo] ánh trăng ở quán trọ trong núi.
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng người xưa,
Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được.
Chú Thích:
.
Thúy vũ [翠羽]: Tức “thúy vũ ngâm,” tên một từ khúc nổi tiếng ngày xưa. Cung điệu của
khúc ngâm nầy còn thấy ở bài Trúc Sơn Từ [竹山祠] của Tưởng Tiệp [奬捷]. Lời đề tựa của ông nói: “Vương Quân Bản trao cho ta một khúc hát
theo Việt điệu có tên là Tiểu Hoa Mai Dẫn, bảo ta lấy ý bay lên tiên, bước
trong cõi hư không mà làm lời cho khúc hát…”
.
Họa long [畫龍]:
Có thể là một loại sáo hay tù và có vẽ hình con rồng. Sách Từ Hải [辞海] dẫn
lời của Thẩm Ước [沈箹]và Từ Quảng [徐廣] nói rằng: “Tù và của người Hồ, chỗ tay cầm, vẽ con
giao long có chân năm sắc.”
.
Ngọc Quan [玉關]:
Tên một cửa ải trên đường đi sang Tây vực [西域,] thuộc tỉnh Cam Túc [甘肃],
nước Tàu. Ở đây, tác giả mượn cảnh để miêu tả tiếng sáo Họa Long làm ẩm ướt đám
mây trên cửa ải.
.
Hai câu thơ cuối, tác giả lấy ý trong điển tích “nhất chi xuân” [一枝春,]
rút từ câu thơ của Lục Khải [陸啟] trong bài thơ “Tặng
Phạm Diệp”[贈范曄]:
(Phiên
âm: Chiết mai phùng dịch sứ / Ký dữ lủng
đầu nhân / Giang Nam hà sở hữu / Liêu tặng nhất chi xuân – Dịch nghĩa: Bẻ cành hoa mai, gặp được người đưa thư trạm
/ Gửi cho người ở Lủng Đầu / Giang Nam chẳng có gì cả / Chỉ tặng bạn một cành
xuân).
Trong
bài thơ “Tảo Mai Kỳ Nhị” nầy, tác giả
mượn ý trên, nhưng đã chuyển ý vào trong cõi mộng rất độc đáo: Nhất chi mê nhập cố nhân mộng / Giác hậu bất
kham trì tặng quân.
Dịch nghĩa: Một cành hoa lạc vào
giấc mộng người xưa / Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được.
Phỏng Dịch Thơ Việt:
MAI
SỚM LẦN HAI
Năm
ngày trốn lạnh, biếng rời nhà
Gió
xuân vừa ghé gốc cây già
Mặt
nước bóng chao, băng sớm rã
Cành
hoa cánh trĩu, ấm chưa ra
Thúy
Vũ chim vờn, trăng núi ẩn
Họa
Long sáo ướt, Ngọc Quan nhòa
Cành
hoa lạc mộng người xưa khuất
Tỉnh
giấc làm sao tặng bạn xa!