NGÔ THẾ VINH
Bốn mươi năm Võ Phiến
nhà văn lưu đày
Trước
và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn
học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ
Phiến nói chuyện với Đặng Tiến 28-10-1998]
*
Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc
tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với
những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông
Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã từ, Lại Thư nhà,
Một mình…
Rồi qua người bạn tấm cám Nghiêu Đề, qua toà soạn Bách Khoa, tôi
quen ông từ những năm trước 1960 cho tới khi ra hải ngoại về sau này.
Võ
Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh
Võ
Phiến viết Bắt Trẻ Đồng Xanh, đăng trên Bách Khoa tháng 10 năm 1968, tựa
đề từ cuốn sách dịch của Phùng Khánh Phùng Thăng The Catcher in the Rye
của nhà văn Mỹ J.D. Salinger, nhưng nội dung bài viết thì lại nói về kế hoạch
cộng sản miền Bắc đưa trẻ em từ trong Nam ra Bắc huấn luyện rồi sau đó đưa trở
về miền Nam. Cộng sản cũng đã làm như vậy sau khi ký hiệp định Geneve 1954. Võ
Phiến viết:
“…trong
giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do
quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp
thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc… họ đang ra
sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn:
đồng loạt người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi từ Quảng Trị, Thừa
Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em
chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường
mòn Hồ Chí Minh…”
“Hỡi
các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp
nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi
cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà
lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai hoạ xẩy đến cho các em cũng là tai họa về
sau cho xứ sở.”(Võ Phiến, Bắt Trẻ Đồng Xanh, Bách Khoa 10/1968)
Bắt
Trẻ Đồng Xanh hoàn toàn không phải là tuỳ bút hay
truyện ngắn mà là một bài chính luận, một bạch thư tố cáo dã tâm của người cộng
sản Việt Nam, chưa bao giờ thực sự muốn có hoà bình, nếu có hoà đàm thì đó chỉ
là bước hoãn binh chiến lược, họ vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác.
Bài viết như một tiên tri, một báo động đã thực sự gây chấn động dư luận bên
trong cũng như ngoài nước, với cái giá Võ Phiến phải trả là bị Việt Cộng lên
án, và cả hăm doạ tính mạng tiếp sau cái chết của ký giả Từ Chung tổng thư ký
báo Chính Luận, do bị đặc công CSVN ám sát. Theo Lê Tất Điều, đã có lúc Võ
Phiến nghĩ tới tạm lánh xuống vùng Hoà Hảo, một khu được coi là miễn nhiễm với
mọi xâm nhập của cộng sản. Đó cũng là lý do tại sao, Võ Phiến có thời gian làm
giáo sư văn chương trường Đại học Hoà Hảo, Long Xuyên. Trong nghịch cảnh cũng
có cái may, nơi đây anh quen một đồng nghiệp trẻ Đỗ Văn Gia, lúc đó cũng đang
dạy bộ môn Triết học Đông phương. Sau này ra hải ngoại, chính anh Đỗ Văn Gia
trong thời gian làm giảng viên văn học và ngôn ngữ Việt Nam tại Đại học Cornell
từ 1982, đã giúp nhà văn Võ Phiến rất nhiều tư liệu ban đầu để có thể hoàn tất
bộ Văn Học Miền Nam.
Bánh
tráng xứ Nẫu trên đất Mỹ
Từ
thập niên 1980, lúc đó hai anh chị Võ Phiến đều là công chức quận hạt Los
Angeles, ngôi nhà số 5621 Baltimore St. Highland Park là nơi Võ Phiến đã sống
quãng thời gian 23 năm. Nhà có vườn rộng đủ loại cây trái chanh cam bưởi, nhiều
nhất là những cây hồng giòn sai trái nặng trĩu cành, có cả bức tượng bán thân
của Võ Phiến, tác phẩm điêu khắc của Ưu Đàm, con trai của hoạ sĩ Rừng. Trong
nhà, ngoài những kệ sách, không có tượng Phật hay tượng Chúa, chỉ có đơn giản
một bàn thờ nhỏ cúng gia tiên. Cũng nơi đây, Võ Phiến đã viết một số những tác
phẩm tại hải ngoại: bộ Văn Học Miền Nam, Thư Gửi Bạn, Nguyên Vẹn, Truyện Thật
Ngắn, Đối Thoại…
Những
lần tới thăm anh Võ Phiến, thường là thứ Bảy cuối tuần vì khách cũng như chủ
nhà còn ở tuổi lao động đi làm. Khách thăm thường đi theo nhóm. Khi thì với
Nguyễn Mộng Giác và anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, khi thì với Tạ Chí Đại Trường,
Thạch Hãn Lê Thọ Giáo; khi thì với anh chị Trần Huy Bích, chị Bích thì rất thân
thiết với chị Võ Phiến.
Trùng
Dương từng gọi chị Võ Phiến là “người đàn bà đằng sau bộ Văn Học Miền Nam
1954-75.” Nhưng tưởng cũng nên ghi nhận thêm ở đây, một số khuôn mặt bằng
hữu khác đã cung cấp các bộ sách tiếng Việt giai đoạn 1954-75 từ các thư viện
Đại học Pháp, Mỹ giúp anh Võ Phiến tư liệu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền
Nam. Như Đặng Tiến từ Âu châu, Trần Huy Bích qua liên thư viện Đại học UCLA, Đỗ
Văn Gia từ Đại học Cornell, hoạ sĩ Võ Đình và trước đó từ 1983, học giả Huỳnh
Sanh Thông từ Đại học Yale (dịch giả The Tale of Kiều), là người giới thiệu Võ
Phiến xin được grant/ trợ cấp từ Chương Trình Nghiên Cứu Đông Dương thuộc Uỷ Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội Hoa Kỳ (Indochina
Studies Program, Social Science Research Council).
Và
khách tới thăm thường ở lại ăn trưa với anh chị Võ Phiến. Bữa ăn gia đình do
chị Võ Phiến chăm sóc, đôi khi có thêm một hai món khách đem tới. Cho đến nay,
có một món chị Võ Phiến cho ăn không thể nào quên, đó là bánh tráng thuần túy
Bình Định nhúng nước, chấm với nước mắm chanh ớt. Chanh thì có sẵn trên cây,
chén nước mắm nhĩ đỏ au những lát ớt cũng hái từ vườn nhà. Món ăn giản dị và lạ
miệng như vậy mà ai cũng lấy làm ngon, và khách cảm thấy ngon hơn nữa khi chủ
nhà dí dỏm liên hệ món bánh tráng xứ Nẫu tới chiến thắng của vua Quang Trung,
bánh tráng đã được dùng như lương khô trong cuộc hành quân thần tốc từ Nghệ An
tiến ra Thăng Long dẹp tan 20 vạn quân Thanh.
Nói
chuyện với Đặng Tiến 1998
Ngày
11-04-98 anh Võ Phiến đã gửi cho tôi bản photocopy 3 trang viết tay bài nói
chuyện với Đặng Tiến kèm theo ít dòng ghi chú: “Thưa anh, đây là bản soạn,
không phải nguyên văn lời nói. Khi nói có lời Đặng Tiến xen vào đôi chỗ. Theo
lẽ thì phát thanh vào 28-10-1998. Không biết rồi có đúng vậy không.” Thân,
Võ Phiến
Đặng
Tiến bút hiệu Nam Chi, cây bút phê bình văn học từ cuối thập niên 1950, là “bạn
cựu” của nhà văn Võ Phiến [bạn cựu là chữ của Võ Phiến để chỉ những cố tri],
Đặng Tiến với Võ Phiến như Bá Nha Tử Kỳ, Đặng Tiến liên tục theo dõi và rất tâm
đắc với những thành tựu văn học của Võ Phiến rất sớm từ 1954 tới mãi về sau
này, và cũng đã có rất nhiều bài phê bình điểm sách của Võ Phiến.
Riêng
tôi, không được nghe buổi phát thanh ấy, nhưng nếu có thì nội dung chắc sẽ
không khác với bản gốc viết tay của anh Võ Phiến. Qua anh Phạm Phú Minh, eMail
liên lạc với Đặng Tiến hiện ở Pháp, anh trả lời là hoàn toàn không nhớ. Tôi
không ngạc nhiên vì cũng đã 17 năm qua rồi. Tiếp đó tôi gửi phóng ảnh 3 trang
viết tay của Võ Phiến buổi nói chuyện với Đặng Tiến, với hy vọng anh ấy có thể
sẽ nhớ ra và cho tôi biết thêm chi tiết. Nhưng rồi ba ngày sau cũng vẫn Đặng
Tiến trả lời: “Gửi NTV: Tôi không nhớ ra, sẽ moi trí nhớ trả lời anh sau.
Giữ liên lạc. ĐT”
Với
anh Võ Phiến, câu chuyện 17 năm trước thì không hy vọng gì anh còn nhớ, tôi vẫn
ghi lại đây nội dung buổi nói chuyện rất ngắn ấy, với 3 trang viết tay [chỉ có
938 chữ] như một chút tư liệu văn học, có giá trị như một Tổng Quan về Văn học
Miền Nam giai đoạn 1954-75.
Thưa
anh [Đặng Tiến],
“Cuối
thời tiền chiến, ông Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một thời kỳ văn học 30 năm của Việt
Nam. Trong mọi bộ môn sáng tác bằng văn xuôi ông chỉ đếm được ba người ở Nam
phần và Trung phần (VP ghi chú thêm bằng bút chì bên lề: Hồ Biểu Chánh, Thanh
Tịnh, Nguyễn Vỹ). Tất cả đều viết truyện. Về bộ môn kịch, ký, tùy bút… không có
ai cả.
Cuối
thời 1954-75, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm riêng về bộ môn tiểu thuyết trong 20
năm ở Miền Nam. Ông bảo số người viết truyện xấp xỉ 200; trong số ấy trên dưới
60 người có giá trị. Giả sử có ai ngờ vực Cao Huy Khanh quá nặng tình bè bạn,
và ai đó hạ số ước lượng xuống còn một nửa – tức 30 tiểu thuyết gia thì 20 năm
này cũng gấp 10 lần 30 năm trước. Ấy là chưa kể đến những tuỳ bút gia, kịch tác
gia của thời kỳ sau.
Về
mặt khác, hồi tiền chiến ở Trung phần – từ Phú Yên vào đến Bình Thuận – chưa có
nhà văn nhà thơ nổi tiếng; và ở khắp các tỉnh Nam phần – ngoài ông bà Đông Hồ
ra – cũng chưa thấy vị nào tiếng tăm rộng rãi trên văn đàn. Nói vậy là căn cứ
theo ông Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh.
Thế
rồi trong khoảng 20 năm sau 1954 lần lượt xuất hiện những văn thi sĩ tên tuổi ở
Phú Yên (VP ghi chú thêm: Võ Hồng), ở Ninh Thuận Bình Thuận (VP ghi: Nguyễn Bắc
Sơn, Nguyễn Đức Sơn), ở Cà Mau (VP ghi: Sơn Nam), Long Xuyên (VP ghi: Nguyễn
Hiến Lê), ở Gia Định (VP ghi: Tô Thuỳ Yên), Vĩnh Long (VP ghi: Nguyễn Thị Thuỵ
Vũ), Sóc Trăng (VP ghi: Vương Hồng Sển)… Số văn nhân thi sĩ tăng cao chừng ấy,
địa bàn văn học nghệ thuật mở rộng đến chừng ấy, như vậy là một đóng góp.
*
Một
đóng góp khác là cái tinh thần tự do, phóng khoáng của thời kỳ văn học này.
Thiên hạ nói nhiều về sự đàn áp tinh thần trong những thời ngoại thuộc: hoặc
thuộc Tàu, hoặc thuộc Tây. Thực ra, không cứ những thời ấy, ngay lúc nước nhà
độc lập, các chế độ quân chủ phong kiến hay chế độ dân chủ cộng hoà ở ta cũng
không dung thứ thái độ khích bác nhà cầm quyền. Ngay khi độc lập dân chủ, vẫn
thường chỉ có một cái tự do được ban phát rộng rãi, là tự do ca ngợi bề trên.
Ở
Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một
nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái,
công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không
thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu
trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các
vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên
mặt sách báo…
Mặt
khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà
ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá.
Trước
và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn
học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.
*
Sau
tính cởi mở tự do, chúng ta có thể chú ý đến một đóng góp nữa. Tôi muốn nói về
hiện tượng suy tưởng triết lý ở Miền Nam trong thời kỳ 1954-75. Đến cuối thời
tiền chiến, tiểu thuyết ở ta đã có trên dưới mười loại, trong đó có những loại
tâm lý, loại luân lý, nhưng khuynh hướng triết lý thì bấy giờ chưa có trong
tiểu thuyết. Qua thời kỳ 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam các băn khoăn triết lý
xuất hiện đồng loạt trên nhiều địa hạt sáng tác: trong tiểu thuyết, trong thi
ca, trong kịch bản, trong tuỳ bút. Có lúc triết lý tràn lan như một món thời
thượng; và nó bị chế giễu.
Tuy
vậy nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc đang chết hàng triệu người vì sự
bất đồng ý thức hệ, bất đồng quan niệm sống. Vào lúc ấy sao có thể không suy
nghĩ về lẽ sống, sao có thể điềm nhiên phó thác tất cả cho lãnh đạo? Mặt khác,
lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng mới đang gây xáo động lớn ở Tây
Phương, phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta có một tầng lớp trí thức nhạy
bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.
*
Nền
văn học 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam trong thời gian qua bị ém giấu, xuyên tạc.
Nó gặp một chủ trương huỷ hoại, gặp những bỉ báng hồ đồ. Nó chưa được mấy ai
lưu tâm tìm hiểu, phán đoán cách đứng đắn, tử tế. Những điều tôi vừa nêu ra
chắc chắn còn thiếu, còn sai còn cạn cợt. Việc đánh giá nền văn học ấy gần như
chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.
[Xin
chào anh Đặng Tiến. Xin chào quí vị thính giả.] Võ Phiến, 10-1998
Bộ
Văn Học Miền Nam 1954-75
Khi
Võ Phiến nói chuyện với Đặng Tiến là vào thời điểm tháng 10 năm 1998, chỉ một
năm trước khi Võ Phiến hoàn tất toàn tập bộ Văn Học Miền Nam [với tập I là Văn
Học Miền Nam Tổng Quan xuất bản 1986 và tập cuối cùng là Bút Ký Kịch
Miền Nam, xuất bản 1999]. Tưởng cũng cần lưu ý câu phát biểu cuối của nhà
văn Võ Phiến: “Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm
chỉnh.”
Như
vậy có thể nói, cho dù Võ Phiến đã phải lao động bền bỉ suốt 15 năm [1984-1999]
để hoàn tất bộ sách Văn Học Miền Nam nhưng chính ông chưa hề tự coi đó là một
công trình hoàn hảo nên vẫn ao ước việc đánh giá nền văn học 1954-75 cần được
bắt đầu nghiêm chỉnh.
Cho
dù bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến có những hạn chế đưa tới nhiều tranh
cãi khá gay gắt. Người ta đã nặng lời trách ông về những phần thiếu sót trong
bộ sách ấy: như khi ông đã gạt một số tên tuổi văn học của thời kỳ 1954-75 ra
khỏi bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan, rồi cả cách ông phê bình các nhà văn, nhà
thơ được ông chọn đưa vào sách cũng bị ông sử dụng cái sở trường văn phong tuỳ
bút/ nay thành sở đoản để châm biếm mỉa mai cá nhân với nhiều thiên lệch.
Nhà
văn Mặc Đỗ nhóm Quan Điểm thì thật sự bất bình, Mai Thảo nhóm Sáng Tạo trong
lần trò chuyện cuối cùng với Thuỵ Khuê 07/ 1997 cũng không kềm được cảm xúc nói
tới “bọn vua Lê chúa Trịnh”, và nói thẳng: “Võ Phiến cũng có chỗ được
chỗ không được. Đại khái như phê bình văn học, đối với tôi thì không được. Văn
Học Miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp văn hay.” (2)
Nhưng
khách quan mà nói, ngòi bút Võ Phiến cũng không thiếu phần tự trào, và cả châm
biếm bản thân mình. Khi trả lời phỏng vấn Lê Quỳnh Mai trong chương trình Văn
học Nghệ thuật đài TNVN Montréal 29-10-2000, nhà văn Võ Phiến đã không ngại khi
ví mình như một Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng: “Nói tới sự may mắn, chắc
chị còn nhớ tới Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, nếu tôi có được một số độc giả chú ý,
chẳng qua cũng như anh chàng Xuân Tóc Đỏ trong truyện ấy thôi.” (4)
Bản
thân Võ Phiến cũng đã biết rất rõ phản ứng của giới cầm bút về bộ sách Văn Học
Miền Nam. Trong thư nhà văn Võ Phiến gửi Lê Thị Huệ Gió-O ngày 16/02/2001:
“Anh
chị em cầm bút thời 1954-75 ở Miền Nam, nhiều người phiền trách tôi về bộ sách
này lắm. Tôi chịu trận thôi. Viết mà cốt cho ai cũng… thương (!) thì thành ra
cái quái gì.” (3)
Nếu
độc giả bình tâm đọc lại Lời Nói Đầu của cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ
Phiến đã bàn qua về “lý do biên soạn cuốn sách đầy những lôi thôi thiếu sót
này.” [sic]
Ông
đã giải thích rất rõ:
“Trước
hết mình không phải là một nhà phê bình nhà biên khảo gì ráo mà tự dưng xông ra
làm công việc biên khảo phê bình là chuyện không nên. Hơn nữa hoàn cảnh thật là
khó: xung quanh không có tài liệu mà mình thì không có điều kiện để đi tìm tài
liệu, lấy gì tham khảo?”
Ông
cũng tiên đoán được cả những hệ luỵ như: ” viết cái gì có liên quan đến kẻ
khác, có chê khen người nọ người kia mà viết qua quýt thì bị mắng mỏ xỉa xói
tưng bừng là cái chắc.”
Cân
nhắc như vậy, nhưng ông vẫn viết tiếp:
”
Ấy vậy mà nghĩ đi nghĩ lại chán chê rồi tôi lại quyết định cứ viết cuốn sách
này. Trước hết là vì chỗ nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn. Thật
vậy, thời kỳ 1954-75 gặp cái rủi ro hiếm thấy, là trong suốt hai mươi năm trời
không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp. Nhưng trước khi có sự công
bình, sự sáng suốt, hãy chỉ mong được chút lưu tâm…
Thời
kỳ 1954-75: câu chuyện hủy diệt văn hóa phẩm Miền Nam từ 1975 đến nay không ai
là không biết. Ta đã không thể ngăn chận được việc phá hủy, không thể bảo tồn
được cái thành tích văn học nọ, thì ngay lúc này cũng nên có một tổng kết, một kiểm
điểm sơ lược, để về sau những ai lưu tâm còn có chút căn cứ sưu khảo. Không
thế, sao đành?”
Vì
chỗ “nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn… rốt cuộc đành miễn cưỡng
viết cuốn sách này trong những điều kiện rất không nên viết. Viết như là một sơ
thảo, một bản nháp, một gợi ý, nhắc nhở, một cách nêu vấn đề, để sau này những
người có đầy đủ tư cách và điều kiện sẽ viết lại một cuốn xứng đáng.” (1)
Biết
thiếu sót, biết trước có những hạn chế nhưng chính Võ Phiến, trái với bản chất
thâm trầm và thận trọng cố hữu, Võ Phiến vẫn liều lĩnh – như một “risk
taker”, ẩn nhẫn làm một công việc tốn rất nhiều công sức và cả nhiều rủi ro
như thế. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trong suốt hơn 15 năm từng bước hoàn
thành công trình Văn Học Miền Nam với hơn ba ngàn trang sách ấy, Võ Phiến vẫn
đang là một công chức sở Hưu bổng làm việc full time cho quận hạt Los
Angeles, như vậy là ông đã phải làm việc ngoài giờ và những ngày cuối tuần. Võ
Phiến về hưu tháng 7 năm 1994, ông tiếp tục viết thêm 5 năm nữa để hoàn tất
toàn bộ Văn Học Miền Nam 1999. Nếu không có hùng tâm, với công sức của một cá
nhân khó có thể làm được như vậy.
Nhưng
để rồi khi viết xong, chính Võ Phiến không khỏi ngẩn ngơ tự hỏi: “Cái đã
viết ra đó là cái gì vậy? Là lịch sử hai mươi năm văn học Miền Nam chăng? Là
kiểm điểm phê bình nền văn học Miền Nam chăng? 3/4 Rõ ràng nó không xứng đáng
là lịch sử, là phê bình gì cả. Nó không có cái tầm tổng hợp rộng rãi, nó thiếu
công phu suy tìm và phân tích đến nơi đến chốn về bất cứ môn loại nào khuynh
hướng nào. Chẳng qua chỉ có những nhận xét rất khái lược, liên quan đến nền văn
học và các văn gia một thời mà thôi.” (1)
Bao
nhiêu phê phán từ trong và ngoài giới văn học đối với công trình Văn Học
Miền Nam 1954-75 của Võ Phiến, thực ra cũng không có nghiêm khắc hơn phần “tự
kiểm” của chính Võ Phiến trong Lời Nói Đầu, Văn Học Miền Nam Tổng Quan
tập 1.
Công
trình nghiên cứu của Võ Phiến cần được đánh giá đúng vào giai đoạn thập niên
đầu ngay sau 1975 với hoàn cảnh ra đời của nó: khi mà trong nước có cả một sách
lược huỷ diệt toàn diện, xoá sổ nền văn học Miền Nam 20 năm ấy, công trình của
Võ Phiến như một nỗ lực sưu tập và cứu vãn/ rescue mission, nên xem như
một khởi đầu đáng được trân trọng.
Ai
cũng hiểu bộ sách Văn Học Miền Nam “không chuyên nghiệp” của Võ Phiến sẽ
không bao giờ là bộ sách phê bình văn học duy nhất hay cuối cùng, nhưng đó là
một bước tạo thuận/ facilitation khởi đầu, một roadmap dẫn tới cả
một khối tài liệu đồ sộ để tham khảo, nó như một giàn phóng cho những công
trình hoàn chỉnh kế tiếp. Đây chính là phần trách nhiệm và nghiệp vụ của giới
phê bình chuyên nghiệp, họ cần có hùng tâm để “bắt đầu nghiêm chỉnh”
việc đánh giá nền văn học 1954-75 bằng những tác phẩm xứng đáng thay vì cứ mãi
xoáy nhìn vào “nửa phần vơi” của bộ sách Võ Phiến.
Một
câu hỏi được đặt ra: ai trong chúng ta có thể “bắt đầu nghiêm chỉnh” một công
trình nghiên cứu như vậy? Một câu hỏi tiếp theo: ai sẽ thừa kế kho tư liệu
phong phú mà anh Võ Phiến có được trước khi rơi vào quên lãng?
Lê
Ngộ Châu hoà giải
Năm
1994, anh Lê Ngộ Châu và con gái sang Mỹ. Với 18 năm điều hành tờ Bách Khoa,
anh có nhiều thân hữu: Võ Phiến có lẽ là người anh thân thiết nhất. Trong chỗ
rất riêng tư, khi biết giữa anh Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác có “vấn đề” trong
sự chuyển tiếp từ tờ Văn Học Nghệ Thuật sang tờ Văn Học.
Nguyễn
Mộng Giác với Võ Phiến vốn là người cùng tỉnh. Võ Phiến tâm sự: “Gặp một tác
giả đồng tỉnh là một niềm vui mừng, lại phát giác ra ở tâm hồn tác giả nọ một
số đặc điểm địa phương đã làm nên cái đẹp của tác phẩm thì lý thú biết bao! Làm
sao cầm lòng được? Phải nói về Bình Định chứ chị!” (4)
Nhưng
rồi cái tình đồng hương ấy cũng không tránh được trục trặc trong vấn đề điều
hành tờ Văn Học, chọn bài vở khi mà Võ Phiến còn đứng tên chủ nhiệm và Nguyễn
Mộng Giác là chủ bút. Rất bén nhạy, Lê Ngộ Châu cảm thấy ngay được sự “nghẽn
mạch” giữa hai người. Anh Lê Ngộ Châu sốt sắng đóng vai “hoà giải” – vẫn chữ
của Lê Ngộ Châu.
Như
một cái cớ, tôi tổ chức buổi họp mặt tiếp đón anh Lê Ngộ Châu tại một clubhouse
trên đường Bellflower, Long Beach nơi tôi cư ngụ. Dĩ nhiên có anh Võ Phiến,
Nguyễn Mộng Giác; riêng Lê Tất Điều đưa anh Võ Phiến tới nhưng bận nên không
tham dự; và có khoảng hai chục thân hữu quen biết anh Lê Ngộ Châu và tạp chí
Văn Học có mặt hôm đó: các anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, Từ Mai Trần Huy Bích, Trúc
Chi, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo, Khánh Trường, Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy… Chỉ
riêng cái tình “tha hương ngộ cố tri” ấy, qua những trao đổi, như từ bao
giờ anh Lê Ngộ Châu vẫn lối nói chuyện vui dí dỏm và duyên dáng, anh đã đã như
một chất xi-măng nối kết mọi người. Và cũng để hiểu tại sao, trong suốt 18 năm
tới 1975, anh Lê Ngộ Châu đã điều hợp được tờ Bách Khoa vốn là một vùng sôi đậu
phức tạp như vậy.
Đó
là lần thăm Mỹ duy nhất 1994 của anh Lê Ngộ Châu, cũng như ông giám đốc Nhà
sách Khai Trí, cả hai đều chọn trở về sống ở Sài Gòn. Năm 2006, trong dịp đi
thăm Đồng Bằng Sông Cửu Long, tôi gặp lại anh Lê Ngộ Châu nơi toà soạn Bách
Khoa, 160 Phan Đình Phùng ngày nào, anh vẫn nhớ và nhắc tới buổi gặp gỡ hôm đó.
Khi hỏi anh về cuốn hồi ký 18 năm tờ báo Bách Khoa, anh Lê Ngộ Châu cười dí dỏm
trả lời:
“Anh
Vinh hỏi Võ Phiến có cho tôi viết không?” Anh Châu muốn nói
tới những chuyện ngoài văn học diễn ra ở toà soạn Bách Khoa trong suốt thời kỳ
ấy. Khi trở lại Mỹ, chỉ ít lâu sau được tin anh Châu mất ngày 24-9-2006, anh
thọ 84 tuổi.
Võ
Phiến 75 tuổi, quá mức ước ao
Tháng
12 cuối năm 1998, tôi nhận được thiệp chúc xuân của nhà văn Võ Phiến, anh viết:
Một
năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 75: quá mức ước
ao! Anh sắp tới lục tuần chứ ít sao, lục tuần là tuổi tung hoành múa bút khoẻ
lắm. Xin chúc anh chị sang năm mới được mọi sự an lành. Riêng anh nên có sách
mới xuất bản. Thân mến, Võ Phiến
Thực
sự anh Võ Phiến lúc đó mới 73 tuổi, anh sinh năm 1925, tuổi Ất Sửu.
Cả
ba bạn văn: nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà báo Như Phong và anh Lê Ngộ Châu cùng
tuổi Quý Hợi (1923), hơn Võ Phiến hai tuổi. Doãn Quốc Sỹ vẫn gọi đùa Lê
Ngộ Châu là Lê Quý Hợi và anh ấy là Doãn Quý Hợi. Ba ông Quý Hợi thì nay chỉ
còn một Doãn Quốc Sỹ. Nhà báo Như Phong mất 2001 tại Virginia, chủ nhiệm Lê Ngộ
Châu mất 2006 tại Sài Gòn.
Cũng
vẫn thư nhà văn Doãn Quốc Sỹ gửi anh Lê Ngộ Châu [29/08/1996] có nhắc tới
Võ Phiến mà anh gọi đùa là cụ Võ Bình Định: “Được xem bức ảnh cụ Võ Bình
Định mặc màu áo sơ-mi rất trẻ, nhìn ảnh cụ cười mà tưởng như nghe thấy cả tiếng
cười hóm hỉnh của cụ điểm xuyết trong câu chuyện tại toà soạn Bách Khoa ngày
nào.”
Trước
ngưỡng tuổi cổ lai hy, Võ Phiến đã trải qua hai cuộc mổ tim lớn / Coronary
Artery Bypass Surgery; lần thứ nhất 1985 khi Võ Phiến mới 60 tuổi, anh bắt
đầu bị ám ảnh về cái chết:
Ra đi tuổi chẵn năm mươi,
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê… (1986)
Bảy
năm sau 1992, Võ Phiến 67 tuổi lại phải bước vào cuộc mổ tim lần thứ hai khó
khăn và phức tạp hơn. Anh bi quan và bị ám ảnh nhiều hơn về cái chết.
Anh
đã đặt bút viết về Cái Sống Hững Hờ: “Bản thân tôi trước đây có lần
phải vào bệnh viện chịu mổ xẻ, tôi ngậm ngùi viết những lá thư gửi lại bạn bè,
nhờ một văn hữu thân tình trao giúp cho, sau khi mình…ra đi. Hoá ra rồi sau
cuộc giải phẫu tôi tiếp tục sống nhăn. Sống và ngượng ngập vu vơ.
Năm
tháng trôi qua. Quá bát tuần, tôi lén lút hướng một chút tưởng tượng về cái kết
thúc của đời mình. Chắc là gần thôi. Liếc mắt phớt qua tí ti, sợ gì? Liếc qua
xong rồi liếc lại, tôi ngạc nhiên không nhận thấy một xúc động bất thường nào
xảy ra cả. Cuộc sống đang tiếp diễn vẫn tiếp diễn đều đều…
Tạo
Hóa có lòng lành, nhón tay khe khẽ điều chỉnh lòng người. Tuổi người càng cao,
lòng người càng bớt sôi nổi, bớt tha thiết. Rốt cuộc còn lại một sự hững hờ:
‘Chết? ai mà khỏi? Việc gì phải sợ?’ Tôi âm thầm nghĩ ngợi và ngờ rằng đây là
lúc xuất lộ cái từ tâm của Hóa Công. Chúng ta không nên mè nheo đòi hỏi cho
được vừa huýt sáo mồm vừa chết. Chỉ mong những bước chân đến ngôi mộ của chính
mình sẽ là những bước thong thả, hững hờ. Đại khái thế thôi.”
Khi
chị Võ Phiến cũng nghỉ hưu, không còn nhu cầu ở gần sở làm nữa, năm 2003 anh
chị dọn về vùng gần Little Saigon. Ngôi nhà mới xinh xắn hai tầng trong một cư
xá yên tĩnh cuối đường số 5 thành phố Santa Ana, cũng có một khoảnh vườn rất
nhỏ với những cây hoa hồng ở bờ dậu, và một ít cây trái; vừa sức để chị Võ
Phiến bước qua tuổi 70 vẫn còn có thể vui thú điền viên và chăm sóc. Ngoài
những sách tái bản như Võ Phiến Toàn Tập, Cuối Cùng được coi là tác phẩm
sau cùng của Võ Phiến hoàn thành nơi ngôi nhà mới, viết xong 2007 Nxb Thế
Kỷ 21 cho in năm 2009.
Võ
Phiến bước vào tuổi 90
Sinh
ngày 20 tháng 10, 1925, sáu tháng nữa, 2015 Võ Phiến vừa tròn 90 tuổi. Có lẽ
anh là một trong số ba nhà văn Miền Nam ở hải ngoại sống thọ nhất, chỉ sau nhà
văn Mặc Đỗ 98 tuổi [sinh năm 1917] sống ở Austin Texas, nhà văn Doãn Quốc Sỹ 92
tuổi [sinh năm 1923] hiện sống ở Nam California.
Lại
vẫn dùng một câu viết 17 năm trước trong một thiệp xuân của Võ Phiến 1998: “Một
năm nữa lại sắp qua, vậy mà lẽo đẽo mình cũng lần mò tới tuổi 90: quá mức ước
ao!”
Và
cuộc sống của Võ Phiến “vẫn cứ tiếp diễn đều đều”. Chị Viễn Phố, vợ anh
vẫn che dù cho anh đi bộ mỗi ngày với walker có bánh xe lăn. Nhìn chung theo
khía cạnh y khoa, ở nhóm tuổi 90 ấy, thể lực của anh Võ Phiến được xem là khá
tốt cho dù trí tuệ anh đã có nhiều phần lãng đãng, cái lãng của người cao tuổi
/ senile dementia. Anh không nhớ hết những khuôn mặt thân quen nhưng với
vài người “bạn cựu” – vẫn chữ của Võ Phiến – thân thiết lâu năm như
Hoàng Ngọc Biên, Đặng Tiến, Lê Tất Điều… anh vẫn giữ được một trí nhớ xa/ remote
memory qua các cuộc nói chuyện điện thoại gần đây và cả ở những lần gặp
mặt.
Vậy
mà đã 40 năm, với hai lần Võ Phiến khóc khi di tản khỏi Việt Nam: một lần ở toà
soạn báo Bách Khoa trên đường Phan Đình Phùng, lần thứ hai trên con tàu Messenger
khi rời đảo Phú Quốc. (5) Bốn mươi năm ấy 1975-2015, với bao nhiêu nước chảy
qua cầu, như một nhà văn lưu đầy Võ Phiến vẫn sống làm việc trong sự cô đơn
buồn bã. (6)
Bài
viết tháng Tư này, gửi tới nhà văn Võ Phiến khi anh bước vào tuổi thượng thọ 90,
ngưỡng tuổi 90 xưa nay là hiếm. Cũng gửi tới hai anh chị Võ Phiến và Viễn Phố
lời chúc “cây đời thì vẫn cứ mãi xanh tươi” (7)
NGÔ
THẾ VINH
Long Beach 04/ 2015
Long Beach 04/ 2015
Tham
Khảo:
1/
Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Lời Nói đầu. Võ Phiến. Nxb Văn Nghệ 1986. http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3056
2/
Lần trò chuyện cuối cùng với Mai Thảo. Thuỵ Khuê 07/ 1997
3/
Lê Thị Huệ. Võ Phiến, Văn Chương Mất Trí Nhớ. 11-2012
4/
Lê Quỳnh Mai phỏng vấn nhà văn Võ Phiến. Tác giả, với chúng ta.
Nxb
Khôi Nguyên, Montréal Canada 2004.
5/
Ngô Thế Vinh, Bốn Mươi Năm Dương Nghiễm Mậu và Tự Truyện Nguyễn Du
http://damau.org/archives/35745
6/
John C. Schafer Võ Phiến and the sadness of exile.
Southeast
Asia Publications, Center for Southeast Asian Studies, Northern Illinois
University, Mar 1, 2006
7/
Johann Wolfgang von Goethe. All theory,
dear friend, is gray, but the golden tree of life springs ever green. Faust
pt.1 (1808) ‘Studierzimmer’