Từ “Cha” chỉ là một tên gọi khác của
lòng yêu thương
(Fanny Fern)
Đêm khuya đèn hắt bóng rầu rầu
Lệ chữ theo hoài trang sách sâu
Cha buông nét bút sầu ẩn sĩ
Một dải sơn hà một nỗi đau
Cách đây ba mươi mấy năm, tôi đã viết
về cha tôi như thế. Cảm xúc từ một đêm rất khuya đi ngoài ban công nhìn vào bàn
làm việc cha bên cửa sổ còn ánh đèn, in trên gương mặt xương nét sầu muộn cô độc.
Khi đưa cha đọc, ông bảo, sao tứ tuyệt mà con để thất niêm luật thế...
Chẳng bao lâu sau đó, ông bị đem đi,
rất xa nhà. Không hiểu sao cuộc đời cha cứ đong đưa tù ngục, của cả hai phía.
Tôi nghĩ cha tôi thật sự là người mơ mộng. Tại vậy, mà ông đúng là cây cô độc,
như ông viết trong một vở kịch dở dang. Dang dở như sự nghiệp và hoài bão của
ông. Cái nỗi đau dải sơn hà trong tâm cha thôi hãy để tan vào bụi tro trong chiếc
tĩnh im lặng. Cha ơi. Con chỉ muốn nhắc đến tình cha, yêu thương con gái như thể
mình là chỗ cho nó hành tỏi yêu thương. Làm nũng hết biết (giờ mới biết thế), từ
cái ngày còn mặc áo đầm xoè trắng cho đến tuổi vòi tiền may một cái áo dài lụa
hoàng hoa.
Hôm nay là Ngày
Của Cha, 16 tháng 6, 2013. Calif. còn hơi mát của buổi cuối xuân. Ngày Của Cha
được nước Mỹ kỷ niệm vào Chủ Nhật thứ ba của tháng 6. Đạo luật công bố Ngày Lễ
Cha được Tổng Thống Richard Nixon ký duyệt vào năm 1972, sau 62 năm kể từ khi
bà Sonora SmartDodd, trong lúc ngồi dự Ngày Lễ Mẹ vào chủ nhật thứ hai của
tháng 5, năm 1910, trong thánhđường Spokane, Washington, bà nhớ tới cha của
mình, sau đó bà đã phát động một phong trào đề nghị một ngày lễ cha. Bây giờ mỗi năm, theo thống kê, tại
Mỹ gần 90 triệu cánh thiệp đã được gửi đi để tri ân, tưởng nhớ người cha. Hôm
nay con cũng viết cánh thiếp này gửi đến cha qua chập chùng mây trắng của thời
gian…
Trong nắng tràn trề, text Happy
Father’s Day cho vài bạn thân, nhìn người bạn trăm năm đangngồi ngắm mê hình cô
cháu Khánh Chi, tôi nói, có cần Happy Father’s Day không, bèn nghe trả lời,
không, grandpa, thích hơn. Thế đấy, có nghĩa là tôi phải tỉnh ra, cái thời
gian mình bây giờ, bà nội rồi, bao giờ cũng thế, tôi luôn bị kéo ra khỏi cõi mộng
mơ, vậy nên, lập tức bỏ chạy, vào cái cõi phi thực của mình. Cũng là một cách bảo
vệ mình khá hiệu quả.
Miệng hớp vào một ngụm cà phê
starbucks, mắt như đã ướt, cõi vừa lọt vào là vòng tay ấm của cha... Thật ra hạt
nước mắt này đã tượng nên hình tướng từ đêm qua kia, sáng nay nó mới vỡ ra để
tôi thấy trong gương nắng hình ảnh cha ôm tôi long lanh, và mái tóc khói thời
gian của tôi bỗng mềm mại xanh mướt dưới bàn tay cha…
Đêm qua, 15.6, trên TV, tường
thuật một phim hoạt hình về cha và con
gái, giọng nghẹn nghẹn, với âm thanh biểu cảm nhất của xướng ngôn viên Tuyết Lê
tôi đã từng nghe. Phim có tên Will của đạo diễn Eusong Lee, đã đoạt giải tại
The Student Academy Award vào ngày 8 tháng 6.2013 (shortoftheweek.com/2012/05/02/will/). Mở
đầu và kết phim là lời của người cha được đọc bằng một giọng nam cảm động, con
gái, cha sẽ không sao đâu, cha sẽ trở về, phim kể, ông là một trong hàng
ngàn nạn nhân của thảm họa khủng bố ngày 11 tháng 9, 2001 tại World Trade
Center, buổi sáng ông chia tay con gái đi làm và rồi không về nữa, cô bé với nỗi
nhớ thương cùng ý muốn mãnh liệt đã cố gắng với món đồ chơi yo-yo (mà cha cho
cô trước khi đi làm) để quay ngược thời gian về lại thời điểm lúc sáng cha chia
tay, và cái chết đã không xẩy ra. Phim dài chỉ 4 phút, hình ảnh được thể hiện bằng
những nét cắt kim cương như những vết buồn sắc nhọn cứa vào cảm xúc.
... Ký
ức tôi mãi ấp ưu bãi cát trắng phau của biển Nha Trang, cha đi trước với mẹ,
tôi đằng sau cố in bước mình vào dấu chân cha, loi choi theo những bước quá dài
so với bước mình, cha quay lại thấy thế, ôm tôi, nói, ờ, ba sẽ bước ngắn lại
cho con theo kịp nhé con gái. Mỗi lần nhớ tới câu này là nó kéo nước
mắt của tôi ra. Cứ mỗi tuổi tôi lại hiểu câu nói này khác đi, dần dà nó như một
điểm tựa cho tôi. Tôi mạnh mẽ hơn khi nghĩ rằng những khó khăn của cuộc sống
cùng bệnh tật mình gặp cũng sẽ nhân hậu như thế, không dài quá bước chân của
mình.
...Hồi rất bé, nhát, người nhỏ con,
tính lại hay buồn, thường đứng tựa một mình bên cửa nhà,hay khung cổng đầy rêu ở
nhà nội mỗi khi về quê. Chị Hạnh, con bác Tám, nói với mẹ tôi, lúc ngồi cùng
nhau trên một chiếc xích lô, chị vuốt tóc tôi, sao con nhỏ Khánh này nó buồn
quá hả thím… Tôi có cảm giác luôn chờ cha, ông vắng nhà hoài. Mẹ tôi, rất
chịu diện cho con gái bé, nhưng nghiêm khắc hơn về những điều phải có, phải làm
của một đứa con gái, bên cạnh đó là kỷ luật của bà ngoại. Nhớ một chiều, tôi
quét sân, cái chổi tre tròm trèm tôi, và cái sân thật to, lá hoa rụng thật nhiều,
quét miệt mài cho đến lúc giật mình, Khánh sao con phơi mưa dậy hả, -ba về! và
quăng cái chổi chạy tới nhào vào vòng tay đang mở ra của cha. Bậc thềm chiều ấy
ấm lắm.
…Hồi đó, tiễn cha đi dạy học xa, tôi
vừa đủ tuổi để biết chia tay là rất buồn. Trong trí nhớ tôi là sân ga đêm, khói
toa tầu, tiếng xình xịch rền trên thềm đưa tiễn. Cha ôm mẹ, ôm tôi, và tôi luôn
được nghe, lúc cha bước lên mấy bực toa tầu, quay đầu lại, ba sẽ về sớm thôi
mà tôi đã là một đứa con hạnh phúc khi luôn được đón bước cha về, không như
cô bé trong Will, không như người con gái
trong phim hoạt hình Father and Daughter, đã chờ cha mìnhsuốt một đời và
chỉ được ở trong vòng tay cha nơi màn sương ảo...
Cha, người đàn ông đầu tiên và gần
như duy nhất mà tôi được làm trận làm mạc mà không chút nao núng, vì luôn được
nhượng bộ. Thế đấy. Để bây giờ biết rằng những điều mình đã có không bao giờ
còn được hưởng nữa. Không là hai mươi tuổi
trở lại để nghe, sau một cơn giận dỗi bỏ cơm, cha đứng ở cầu thang ngoài
cửa sổ ánh nhìn trễ xuống sau cặp kính, khánh, không đói bụng hả? Chỉ chờ
thế, bật dậy chạy xuống bếp, thấy đồ ăn mẹ để dành trên bàn. Nghĩ tiếc và trách
mình, lớn lên, lại không ôm cha như hồi bé nữa… Tôi có niềm tin cha là người
yêu tin tôi một cách, tôi là như thế. Như bờ cát nhận phù sa từ dòng sông
thương yêu ấy. Từng ngày.
…Nhớ hồi ba mẹ dọn về ngôi nhà mới ở
đường Lữ Gia Nha Trang, nhà lớn sân rộng, có một cây sầu đâu, màu hoa tím cấy
nét mơ mộng vào ánh nhìn cô gái nhỏ. Và được nuôi niềm hy vọng từ những lời của
cha, ngôi nhà này có thể làm một trường học, và Khánh sẽ là hiệu trưởng…
Lúc tôi 6,7 tuổi khi trồng cây thiên lý, cha cũng nói, để cô khánh hái hoa
xào thịt bò, cha đấy, chắt chiu cho con gái, từ việc nhỏ li ti đến việc lớn…
Không kể chính trị linh tinh, con đường
lập nghiệp của cha tôi gắn bó với những ngôi trường. Ở Nha Trang. Theo trí nhớ
của tôi còn đậm, chỉ một trường trung học tên Tương Lai, nằm trên con đường ra
ga xe lửa, tôi vẫn thường được cha dắt đến mỗi khi trường có liên hoan Tết,
phát thưởng…, mỗi lần như thế được mẹ chải đầu cột chiếc nơ xanh, mặc áo đầm
xoè nhiều từng, được các anh các chị ôm khen rối rít, con gái thầy Nhường dễ
thương quá…
Cha dạy môn Việt Văn lớp đệ Tứ, đệ Nhị.
Tôi học văn từ cha nhiều hơn cả qua những bữa cơm chiều, cha bảo, con hãy
ghi những điều con thích vào sổ tay, sổ ấy ngày càng nhiều trang. Cha là
người đầu tiên đọc thơ Nguyễn Du cho tôi nghe, không phải là Kiều, chữ đẹp nên
cha bảo chép vào một cuốn sổ dày, viết một trang chừa một trang bên cạnh để cha
viết chữ Hán của bài thơ đó. Cha thích bài Đạo Ý, và đấy là bài thơ chữ Hán đầu
tiên mà tôi thuộc bằng âm Hán Việt, đọc thấy thích ngay dù chẳng hiểu gì ý tứ của
nó. Có lẽ tại cha hay ngâm nga. Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh/ Tỉnh thủy vô ba
đào (Trăng sáng soi giếng xưa/ nước giếng không dậy
sóng…)
…Dạo ở tù về, cha lặng lẽ. Mỗi sáng cha qua làm vườn bên sân chùa, bữa
cơm nhà có thêm rau cải non, trái khổ qua… Sáng dắt xe đạp ra cổng, tôi nhìn
theo dáng áo nâu với cuốc trên vai khấp khểnh trên con đường hai bên không phải
là ruộng xanh mà là những cãn nhà phố, tôi tự hỏi lúc ấy cha nghĩ gì. Tối thì
cha thường xuyên thức khuya, nhìn qua cửa sổ, tôi cảm thấy một nỗi cô quạnh xót
xa với cảnh ánh đèn vàng yếu và mái đầu cha cúi trên trang giấy, bóng một người
khắc khổ trên một con đường dài. Hình ảnh trong bức tranh ấy cái gì cũng chỉ có
một, lẻ loi. Và tôi, cũng một mình, đứng nhìn theo bóng cô độc ấy hút cuối đường
gió và bụi. Cha ơi… con lại nhớ giọng cha, trạm trạm nhất phiến tâm/ minh
nguyệt cổ tỉnh thủy…(tấm lòng vằng vặc/ như ánh trăng soi giếng năm xưa)
Tôi biết nỗi buồn bã thất vọng của
cha về những hoài bão không thành, nếu cha chỉ đi theo một con đường là dạy học
viết sách, làm thơ thôi, thì hẳn con sông tâm hồn ấy đã êm đềm biết bao. Vào tuổi
còn trẻ, cha đã nổi máu giang hồ, bỏ nhà ra Huế học. Rồi khi đang yên ả ở quê
nhà, lại bỏ đi kháng chiến chống Pháp. Trên bước đường chinh chiến thì, trái
tim nghệ sĩ ấy lại thêm một lần nữa, rung động, và thế là lại buộc ràng hệ luỵ
gia đình, đến khi nhận ra rằng, cái mộng tưởng chính trị không đúng là điều ông
đã mơ, thì cuộc sống của cả nhà từ ấy biết đến sóng gió. Mẹ bảo nếu mẹ không mắc
chứng sốt rét đến điên loạn, và nếu không có tôi, thì chắc gia đình lúc ấy vẫn
còn theo cha lặn lội… Và nếu không có bà nội ở Nha Trang thì, chúng tôi đã
không có một bến yên ả ở thành phố biển này.
... Khi cả nhà sum họp lại. Cha cũng
không ở yên một chỗ. Dạy học khi thì Nha Trang khi thì Sài Gòn, Biên Hoà, rồi
mãi miền Tây. Không bương chải sao khi một đàn con tuổi ăn và học.
Và rồi cha làm rất nhiều nghề, ký giả,
viết sách giáo khoa, soạn tự điển, dạy học, thầu khoán xây cất, nhà in, coi Tử
Vi, bốc dịch, nhà Hán học (chả vậy mà, năm 1975, khi công an vào xét nhà, thấy
một xấp những thiếp nhỏ ghi nghề nghiệp của ông trên bàn làm việc, họ đã phán, là
CIA của Mỹ Nguỵ)
Nói đến đây mới chợt thấy một điều là
cha tôi bị thất nghiệp hoài. Mà nguyên do chủ quan nơi cha. Ông mau chán, dễ bất
bình, không theo đuổi cái gì lâu dài, ngoại trừ duy nhất việc soạn cuốn từ điển Hán
Việt Từ Nguyên cho tới cuối đời. Những lúc ấy gia đình vẫn ổn thoả được là nhờ
vào tiền lương dạy học của mẹ. Nghe mẹ kể, có một người hỗ trợ cha viết và in sách
giáo khoa, một loạt về Việt Luận Tú Tài, và Tự Điển, đó là ông chủ nhà sách
Khai Trí ở đường Lê Lợi, đã giúp gia
đình tôi qua lúc bấp bênh. Ông Khai Trí có nhiều kỷ niệm với gia đình, và với
riêng tôi sau này nữa, khi ông nói với tôi về thơ của tôi.
Nói chuyện cha làm báo. Cha tôi có
tính châm biếm. Khi vào Sài Gòn, có một dạo cha giữ một mục gọi là Nụ Cười Gừng
trên một nhật báo (Điện Tín?), bài viết của cha làm bị kiểm duyệt hoài, nên sau
đó cha không được tiếp tục nữa. Rồi cha ra một tờ báo riêng, Đuốc Việt, nhớ cha
nói, hai năm nữa ra trường con sẽ giữ tờ báo này, tha hồ viết. (Hình như
tôi cũng có mộng làm báo như cha) nghĩ cha
thật lạc quan tếu, cũng chỉ vì cái “tha hồ viết” ấy mà tờ báo của cha chỉ
thọ được 4 số.
Dây mơ rễ má đến chuyện báo chí, có một
kỷ niệm, hình như vào những năm 60,63, nhà văn Chu Tử ở Sài Gòn ra Nha Trang, ở
chơi nhà ba mẹ tôi khá lâu, bác bị bệnh gì đó, họ cùng bàn đến một tờ báo mà
bác đang làm, tên Ngàn Khơi, họ bàn mê say đến nỗi bác ăn thịt bò nhúng dấm mà
nếu mẹ tôi không la lên, anh Bình, anh chưa nhúng thịt vào dấm, (Bình là
tên thật của Nhà văn CT) thì chắc bác đã ăn thịt bò sống rồi. Chỉ nhớ về bác và
tờ báo có thế. Riêng tôi thì được cô Uyên Chuyên phụ trách mục thơ nhi đồng
phong cho danh hiệu, thi sĩ búp bê, lại in hình và giải thưởng một con búp bê mặc
áo đầm đỏ rực rỡ, con bé 11 tuổi tỷ khoái.
…Vào những năm 90, lúc này cha đã được
về nhà khá lâu, có tuần báo tên Gia Đình Trẻ mời cha làm chủ bút, dĩ nhiên cha
kéo tôi vào làm. Trong toà soạn có người bạn hồi trung học, nhà thơ Nguyễn Đức
Cường, và nhà thơ Hồ Nam. Có một lần khác ý gì đó, chỉ mình cha tôi một ý còn
những người khác, giống tôi. Cha tôi la lên, con phải làm theo ý ba, tôi
cũng nói khá lớn, dạ con không làm. Nhà thơ Hồ Nam nói, tôi không ngờ
cô dám nói thẳng với ông cụ như thế.
Nhưng cô đúng. Rồi kết quả cũng giống sau mỗi lần giận dỗi bỏ cơm hồi
bé... con luôn thắngba ơi... Tờ báo ấy sống cũng tương đối. Kỷ niệm duy
nhất về làm báo với cha, và là một hồi ức đem lại cho tôi phút giây rất êm đềm.
Tôi có ước mơ cho tới giờ vẫn còn
nóng, một nhà in và xuất bản, một hiệu bán sách. Ước mơ nhỏ quá hả, nên nó mãi
là trái bóng bay bay, cho mình thèm chơi, nhớ lúc thố lộ với cha, cha cười kiểu
như tôi là con hề. Không phải cha không tin sức tôi, nhưng cha biết rõ điều
không thể. Dạo cha làm nhà in, cha vẫn lấy sách ở nhà xuất bản Hồng Lam, Điện
Tín, Nguyễn Trãi, về cho tôi làm thầy Cò chữa lỗi chính tả, Khương, em trai tôi
thì tới học sửa máy in và sắp chữ, và cha bảo, làm gì các con cũng phải khởi đi
từ những việc nhỏ. Cha luôn, đúng là trên từng cây số (tên một cuốn phim
hồi đó) ước mơ với đứa con gái mơ mộng. Chia sẻ cả với thư riêng của con gái
vào tuổi biết yêu…
Có điều, hồi 15,16 tuổi, khi đã có những
bài thơ tình đăng báo thì tôi dấu biệt vì cả hai bậc phụ huynh có vẻ không vỗ
tay vào cho chuyện thơ của tôi, mẹ không viết văn làm thơ đó sao, cha cũng thơ
cũng văn, năm 1968, cha được cử là thành viên trong phái đoàn đại diện Văn Bút
Việt Nam Cộng Hoà đi họp Văn Bút Quốc Tế ở Menton, Pháp, cùng đi với cha, tôi
chỉ còn nhớ Thi Sĩ Bàng Bá Lân vì ông là bạn thân của cha, (dạo đó bác Lân thường
tới nhà, tập họp mấy anh em tôi lại và kể chuyện ma trong phòng khách tối, thật
vô cùng vui, bác có giọng kể chuyện, nhỏ, có lúc thầm thì, rất lôi cuốn, luôn
ngắt câu bằng “các con hiểu chửa?”, có khi tôi lắc đầu nhại, trả lời “chửa”...
lúc ấy, bác có chương trình kể chuyện không giờ ở TV)
Khi tôi vào tuổi 20, chỉ có hai người
là bạn văn chương với ba mẹ, nhà thơ Tuệ Mai và Phạm Thiên Thư là ủng hộ, và
khuyến khích tôi bằng những lời khen mà lúc ấy nếu ai hỏi mây xanh như thế nào
thì tôi quả quyết rằng tôi đã cảm giác được độ cao và sự mềm mại quyến rũ của
nó rồi. Cha bảo, không nên để lọt tai những lời khen. Tôi trả lời, họ
đâu có khen con, họ bảo con thừa hưởng nòi thơ văn của ba má, và, cha cũng
có vẻ rất dễ chịu về câu nói ấy. Rồi khi tôi ra tập thơ đầu tiên,1992, thì cha
thôi không còn nói, đàn bà con gái thơ văn chỉ có khổ, nữa.
MÁI LẦU THƠ MINH MINH,
Nhờ những buổi họp thơ ở mái lầu Minh
Minh của ba mẹ mà tôi được chiêm ngưỡng những dung nhan văn học có tiếng đương
thời, tiếc là lúc ấy tôi không ý thức được đó là những cơ hội hiếm trong đời để
ghi hình ảnh với họ, kỷ niệm chút hương lây, và biết đâu lại là một tài liệu
quí trong những bài sẽ viết của mình… quả thật tiếc.
Tôi đi ra đi vào châm nước trà, nhớ
cái dáng mảnh khảnh cốt cách Vũ Hoàng Chương cúi xuống bàn, viết những dòng chữ
như những vết cắt mạnh mẽ trên trang giấy: Trăng bạc ai treo ở giữa nhà…,
viết như thế nhưng khi quay sang tôi đang ngồi tay chống cằm bên cạnh, ông nói,
không, trăng sáng, con bé này đấy. Sướng tỉnh người, con bé là tôi ấy.
Nhớ dáng người cao vững chắc như tùng
Hà Thượng Nhân, nổi tiếng siêu tốc làm thơ Đường, ông viết ngay tại bữa tiệc chẳng
cần giấy tờ gì cả, cứ đọc mỗi câu là ông lại mỉm cười rất có duyên, phòng im phắc
bỗng vỡ oà.
Rồi Bùi Khánh Đản, rồi Cao Tiêu người
nào cũng phong thái rất mực thi nhân nho nhã, và đâu một hai lần, tôi lại được
nhìn dáng cao gầy học giả Nguyễn Đức Quỳnh với đôi mắt nghiêm, sáng, nhìn như hỏi,
lúc nói hay dơ bàn tay với ngón trỏ dài thanh tú, bên cạnh là vẻ đẹp như tây
phương của cụ bà.
... Lại nhớ, một
lần, nhân vở kịch thơ Siêu Thoát của cha diễn góp vui văn nghệ tại nhà của một quan chức Bộ Ngoại
Giao thời Đệ Nhị Cộng Hoà, gọi là diễn nhưng chỉ ngồi một chỗ rồi ngâm thơ vai
của mình thôi chứ không diễn đi tới đi lui, không có ai vào vai tiểu ni, tôi
bèn bị tóm, và tôi có khoảnh khắc đáng nhớ, tôi được dạy ngâm thơ cấp tốc bởi
nghệ sĩ Hồ Điệp, tôi đã không phá hỏng vở kịch, còn được cô Hồ Điệp bảo có chất
giọng, cố luyện thêm em nhé, cô có giọng nói sang cả để chở thật trọn vẹn
nét mặt đẹp trầm lắng.
...Có một sáng, trong buổi họp thơ
trên gác Minh Minh, bên ngoài cửa sổ lá tre rì rào, Trịnh Công Sơn đã viết tặng
cô Hồ Điệp mấy câu thơ: hỡi hỡi hải âu tới
chốn nào/ cho ta nhắn gửi bạn tâm giao/ quê hương bên ấy phương trời lạnh/ có lạnh
hơn ta ở chốn này. (thơ như có một dự cảm về sau đó của cô, cánh hải âu bay
đi rồi chẳng bao giờ còn thấy nữa), không hiểu sao hai câu dưới TCS lại ghi
thêm đồng tặng mẹ tôi. Sáng đó, ông hát với cây đàn guitar, tôi nay ở trọ trần
gian... vừa cất lên thì không khí nhý chìm xuống cho giọng hát tiếng đàn ấy
ngự trị trên mọi ngõ ngách của im lặng, không gian thời gian và những con tim.
Nghe ông hát xong, nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương bảo, giờ chỉ muốn nghe Sơn hát, không
muốn ngâm thơ nữa.
Quận Chúa Hỷ Khýõng có giọng ngâm Huế
ðặc biệt. Thi đàn Quỳnh Dao, gồm những nữ sĩ tài sắc, chuyên thơ Đường, Mộng
Tuyết, Vân Nương, Uyển Hương, Thục Oanh (phu nhân thi sĩ Vũ Hoàng Chương), Tuệ
Mai, Hỷ Khương…, hai nhà thơ trẻ nhất này ngoài thơ Đường còn nổi tiếng về Thơ
hiện đại và đã đoạt giải toàn quốc về Thơ. Họ đại diện một dòng thơ sang trọng.
Đó là những vạt gió văn chương đã thổi
vào ngày tuổi trẻ của tôi. Mà hương thơm, tôi tiếc là không tận hưởng để ngất
ngây.
... Rồi 1975. Rồi một thời gian
dài...
Bạn hữu thân thiết của ba mẹ, người
vượt biển, người vàotù, người yên hưởng tuổi già, người đi vào cõi xa xăm. Lầu
thơ, như dòng sông lặng lẽ trôi theo nắng phai.
...Bỗng một buổi gợn xôn xao bởi tiếng nói và ánh nhìn của nữ sĩ
Ngân Giang, Anh Thơ, từ bắc vào thăm mẹ. Nhưng tôi có cảm tưởng không phải
là cái xao động rộn ràng mở nhữngtrang thơ. Họ chỉ ngồi nhắc đến kỷ niệm xưa rất
là xưa.
Chỉ thực sự khuấy động như đêm hội là
sự có mặt của một giáo sư âm nhạc nổi tiếng, Trần Văn Khê, ông có giọng nói ấm
chân chất phương Nam, lịch lãm và vui vẻ, ân cần hỏi han tất cả những người có
mặt, kể chuyện dí dỏm, khiến những người gần bảy, tám mươi cho đến cậu bé con
tôi, đều thấy thích, có khi cười bò ra, đến nỗi sau này con trai tôi cứ nhắc, ông
cười không tới nữa hả mẹ? Có lần tôi được ngâm thơ với tiếng đệm đàn tranh
của GS nơi buổi họp thơ ở nhà cô Hỷ Khương, hôm ấy tôi nghĩ, có ngâm dở cũng
không có gì phải sợ, khi được tựa nương vào tiếng đàn tranh ấy.
...Và thêm một buổi, sáng lên trong nắng
mai dáng vẻ văn gia điềm đạm Doãn Quốc Sĩ, nụ cười hiền giả Giản Chi bên cạnh
nghệ sĩ Thuý Hoan và tôi dâng bánh ngày thượng thọ cụ. Cụ là thầy dạy cha tôi.
Đó có lẽ, là lần cuối cùng, để mái lầu thơ của ba mẹ được phập phồng nhịp đập
hơi thở không khí văn chương, bạn bè.
Rồi trả lại gió cho tàng tre.
Cây tre mà họ
thường đùa “cây tre trăm đốt” của mái thơ Minh Minh. Không còn nhớ đã mấy mùa
khô rụng.
Một mình mái lầu nghe lá tre xao xác
ngoài thềm.
Mỗi khi có dịp
lên, nhìn cái án thư gỗ để cuốn sổ kỷ niệm thủ bút của bạn bè ba mẹ phủ bụi,
tôi thấy ngực mình tưng
tức, cái vắng vẻ luôn ở một nốt không gian trầm nhất trên khuông nhạc thời
gian. Nó kéo người ta vào hoài niệm, đóng sau lưng người ta một cánh cửa và trước
mặt là con đường rất xa rất quạnh. Ba phía cửa sổ đóng im ỉm, tôi mường tượng
tiếng cười trong của cô Hỷ Khương vút cao, tiếng cười nhỏ của cô Tuệ Mai trên
vai bạn, âm thanh giọng Hà Nội nghìn năm văn hiến của các nữ sĩ, hoà vào tiếng
sáo Song Nguyên, làm nên một không khí tao đàn trang nhã, tôi còn thấy bùi ngùi
nhớ như thế, huống chi là ba mẹ tôi.
Những hình ảnh, những gương mặt lặng
lẽ trồi lên, lớp này lớp khác đi xuyên qua cánh cửa kính, treo cái nhìn nhớ tiếc
của tôi trên đầu ngọn tre như một hành hình kỷ niệm. Diện tích mái lầu chỉ còn
non nửa, và một góc của gác thơ ngày xưa ấy, là bàn thờ cha. Trên tường treo bốn
câu thơ đã ố chữ của tôi viết cho cha mấy chục năm trước...
…Dạo tôi về thấy trên bàn thờ, mẹ để
mấy tác phẩm đã in của cha, mấy cây bút cha cầm mỗi ngày, và một bản thảo kịch
dang dở, Cây Cô Độc, cha ơi, lệ chữ theo hoài trang sách sâu… Không hiểu sao chiếc cầu thang gỗ dẫn
lên gác thơ bay mùi của mưa. Có lẽ nhà vắng người, một buổi chiều nào đó, trời
mưa, mẹ không thể đóng được cửa sổ nên mưa đã hắt vào…
Cha ơi, giờ nghe con kể về một giấc
mơ, thêm lần nữa, bí mật giữa con và cha…,
Viết vào Ngày Lễ Cha, 16 tháng 6.
2013
*
…Lại sắp tới ngày giỗ
cha…,
Trời đang sắp chuyển vào mùa lãng
đãng nhất trong năm, mùa thu. Mùa đôi khi đi trong quên lãng của trời đất, những
nhịp chuyển khẽ khàng như sợ mạnh một chút nắng sẽ tan và lá sẽ rơi, ý nghĩ sẽ
xao động. Cũng là mùa cha tôi ra đi, như một chiếc lá vàng hút mắt gió. Nỗi nhớ
xếp chồng lên theo bước thu đi thu tới. Tôi thấy mình cũng lao chao theo cái
màu của chiều hạ bất chợt muốn thu này. Thì nhận được e-mail của bạn xa kèm
theo link nghe một bài hát rất rất là xưa, Oh My Papa, do The Browns hát, thư viết “đã đọc Cây Cô Độc, và biết bạn rất nhớ
cha, nên chắc sẽ thích bài hát này”. Vâng, trong nỗi nhớ vắng vẻ, tôi được
tình bạn gõ cửa, và cùng tôi hát,
Oh my papa/To me he was
so wonderful/ Oh my papa/ To me he was so good/ No one could be/ So gentle and
so lovable/ Oh my papa/ He always understood/ Gone are the days/ When he would
take me on his knee/And with a smile/ He'd change my tears to laughter/
Vâng,
bạn ơi, rồi tôi sẽ nghe lại trong căn phòng nhỏ, vào ngày có mùi hương trầm nhẹ
như bàn tay cha trên tóc tôi “Oh my papa/
To me he was so wonderful/ Deep in my heart/ I miss him
so today/Oh my papa/ Oh my papa..*.
Và bạn
hẳn cũng thấu được cùng tôi, Tình Cha, như thể bạn đã tắm nắng, nói đến nắng
thì tức khắc cảm được ngay cái nóng, ấm của nó, phải không…
Nguyễn
Thị Khánh Minh
Santa Ana,Ngày 5 tháng 9.2014
Santa Ana,Ngày 5 tháng 9.2014
Một buổi thơ năm 1990
có Cha Mẹ,
GS Trần văn Khê (đánh
đàn), KM (ngâm thơ)