Ảnh: internet
Dấu
binh lửa, nước non như cũ
Kẻ
hành nhân qua đó chạnh thương
Phận
trai: già ruổi chiến trường
Chàng
siêu mái tóc điểm sương mới về (1)
(CHINH PHỤ NGÂM KHÚC)
Những năm gần đây, tôi gặp lại nhiều bạn
bè cũ, những người mà vào tuổi thanh xuân có ít nhất một lần mơ ước được như tướng
quân Ban Siêu của hai ngàn năm trước, một đời duổi rong trên lưng ngựa. Khi gặp
lại, tóc của bạn bè tôi đã điểm sương hay bạc xóa. Không được lãng mạn như
trong ngâm khúc Chinh Phụ, tóc họ đổi màu không vì già ruổi chiến trường mà chỉ
vì ở trong tù năm tháng dài hơn ngoài đời.
Bạn bè tôi hầu hết đều có tuổi trẻ đầy
ước mơ. Trong gần hai mươi năm qua, họ lại phải thu mình hoặc chịu đày đọa trong
bẫy sập của thực tế. Thực tế thứ nhất là cái quân lực mà họ phục vụ không còn nữa.
Thực tế thứ hai là dù quân lực đó không còn nữa và cuộc chiến đã chấm dứt, họ
cũng vẫn phải sống trong lao tù. Thực tế thứ ba, làm cho đời sống lao tù của họ
cay đắng hơn, nhục nhã hơn, là vì quân đội đó tan vỡ quá nhanh chóng, tan vỡ
trong hỗn loạn, và gần như không có chống cự. Thực tế thứ tư là dù ở tuổi nào,
con người cũng vẫn biết mơ ước, và thông thường, chỉ cảm thấy hạnh phúc khi những
ước mơ có cơ thực hiện.
Ước mơ, hoang tưởng và giả dối là những
cái hoàn toàn không giống nhau. Đời sống ở Mỹ hay ở những nước phương Tây nói
chung lại dễ cho phép những cái rất khác nhau này được sống lẫn lộn. Do đó, trước
cùng một sự kiện, con người có những phản ứng hoàn toàn khác biệt. Người lạnh
lùng, người thích thú, người phẫn nộ, người chua chát, người giễu cợt v.v…
Tôi viết bài này cho những chinh phụ của
hai mươi năm cũ mà dấu binh lửa vẫn còn. Đặc biệt, cho những người phải bắt đầu
lại cuộc đời ở mái tóc chàng Siêu. Dù ít dù nhiều, họ đều có những ước mơ. Nhọc
nhằn hơn cả là phải lựa chọn ước mơ nào để thực hiện cho kỳ được và ước mơ nào
nên quên đi. Sự lựa chọn này nhọc nhằn cho bất cứ ai khác, không riêng gì họ.
Cách đây hai tháng, nhận lời mời của một
người bạn thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa, tôi đến dự dạ
tiệc kỷ niệm ba mươi chin năm thành lập binh chủng này.
Mới vào, tôi chứng kiến những cảnh thật
cảm động. Lần đầu tiên trong một buổi dạ tiệc, tôi nghe nhiều quan khách cùng
hát theo bài quốc ca Việt Nam Cộng Hòa và hát trong xúc động. Nét mặt của các cựu
quân nhân Thủy Quân Lục Chiến thuộc đủ lứa tuổi, thuộc nhiều hoàn cảnh khác
nhau, khi đứng trình diện quốc kỳ, quân kỳ, cùng với tiếng hát của họ đã làm mọi
người quên hiện tại. Một không khí hoài niệm bao trùm. Một không khí của tiếc
thương, của tình đồng đội, và của định mệnh, thứ định mệnh dành cho những người
lính mà loại tuổi xanh của họ đã khiến họ lựa chọn một binh chủng có khả năng
đưa họ đến cái chết nhanh hơn.
Tối hôm đó còn có vẻ như một đêm đoàn tụ
của nhiều bạn bè xa cách lâu năm. Thời còn trẻ, họ cũng sống lăn lóc với nhau
trong quân ngũ, trên chiến trường. Lúc đó, họ không khác nhau mấy. Ngày nay, gặp
lại, mỗi người có một đời sống gần như hoàn toàn khác biệt. Có người đã rất thành
công trong nghề nghiệp. Có người chưa rành ngôn ngữ mới, chưa biết làm gì để sống.
Có người sống ở Mỹ từ 75. Có người trải qua gần mười lăm năm trong lao tù. Cùng
tuổi nhau mà người này trông trẻ trung, nhanh nhẹn, còn người kia thì lụ khụ,
tóc bạc, răng cỏ không còn. Có người sống khác hẳn đời sống cũ, đạo hạnh như một
thầy tu. Có người vẫn hào hoa như ngày còn trong lính. Nhưng khi tiếng kèn
chiêu hồn tử sĩ được thổi lên, trông họ thật giống nhau. Không phải chỉ vì họ
khoác lại bộ quân phục cũ để trình diện quân kỳ, mà có lẽ vì trên tất cả, vào
lúc đó, tình bạn, tình đồng đội, sự hồi tưởng về một tuổi trẻ đã mất và những bạn
bè đã mất chế ngự mọi tình cảm của họ.
Phải
chi cuộc đời ngừng lại ở đó và thời gian đóng khung ở đó.
Cuộc đời lại tiếp tục theo cách riêng.
Bình thản. Bình thường. Và như thế hồn tử sĩ đã được mời gọi trở về trong không
khí của một dạ tiệc. Có rất nhiều bài diễn văn và trình diễn văn nghệ giống như
ở hầu hết cá dạ tiệc có tánh cộng đồng của Việt Nam. Khi dư âm của tiếng kèn
chiêu hồn tử sĩ vẫn còn đâu đó và bài diễn văn của đại diện Thủy Quân Lục Chiến
Việt Nam bắt đầu, thì những tiếng cười nói, giỡn cợt ồn ào cũng bắt đầu nổi
lên. Cái ồn ào lên cao độ khi bài diễn văn cuối cùng chấm dứt và khi ban tổ chức
chuẩn bị tiễn đưa quốc, quân kỳ.
Lúc đó, bạn tôi, cựu tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến bước lên máy vi âm. Có vẻ như anh lấy hết sức
bình sinh để hét lên một tiếng “nghi…ê…ê…m” rung động cả phòng tiệc . Tiếng hô
của anh kéo dài hơn bình thường. Tiếng ồn ào giảm dần. Cuối cùng thì tắt hẳn.
Tiếng hô của anh cũng ngừng lại ở đó. Nhờ vậy quốc kỳ và quân kỳ được tiễn đưa
trong trang nghiêm.
Sau đó, nhạc dạ vũ trổi lên. Vui nhộn.
Một số người tiến ra sàn nhảy, dẫn đầu là một cựu trung tướng thuộc quân lực Việt
Nam Cộng Hòa.
Vợ chồng tôi phải về sớm. Trên đường về
tôi còn nghe âm vang tiếng hô của bạn tôi. Tôi hiểu bạn tôi nhiều lắm. Cả tuổi
trẻ của anh, anh dành cho binh chủng và đồng đội. Sang Mỹ, hơn mười lăm năm
nay, gần như anh chỉ biết có binh chủng, đồng đội, và bè bạn. Nhiều khi tôi có
cảm giác là gia đình anh và ngay cả chính anh
cũng không quan trọng bằng. Dĩ nhiên là bạn bè thương anh, rất thương
anh. Tiếng hô nghiêm của anh xoáy vào tâm can tôi. Nó khiến tôi nhớ đến tiếng
hô của một sĩ quan Nhật trong cuốn phim mới nhất của đạo diễn lừng danh Akira
Kurosawa.
Tôi muốn ghi lại đây phần xây dựng của
Akira Kurosawa.
Nhan đề của phim là “Những giấc mơ”
(Dreams), trong đó ông xây dựng những giấc mơ khác nhau để nói về những ước mơ,
những sợ hãi, những ám ảnh trong cuộc đời. Từ giấc mơ của tuổi thơ đến những giấc
mơ của tuổi thanh niên, trung niên và sau cùng là giấc mơ của tuổi già. Thật ra
cũng có thể coi đây là những giấc mơ của một người trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau trong cuộc đời người đó. Tôi xúc động nhiều khi xem phần liên hệ đến
những người lính, tựa đề “Con đường hầm” (The Tunnel).
Trong
phim -tôi đoán đây là khoảng thời gian đầu tiên sau khi Nhật đầu hàng- có một
sĩ quan Nhật thất thểu ra về từ trại tù. Chỉ có mình anh, giữa cái yên lặng của
núi đồi. Khi gần đến một con đường hầm mà anh phải đi qua để trở về với đời sống
bình thường , anh bỗng dừng lại. Từ trong hầm, một con quân khuyển chạy ra,
trên người nó mang đầy chất nổ. Nó nhìn anh và sủa. Hình như anh nhận ra nó.
Anh hơi sợ nhưng rồi cũng cố mạnh dạn bước vào đường hầm. Chỉ nghe tiếng chân
anh vang động. Ra khỏi đường hầm, anh khẽ quay đầu nhìn lại và thấy bóng một
người đang chạy ra. Một người lính trang bị súng ống đầy đủ như lúc lâm trận.
Anh thốt lên:
“Binh
nhì Noguchi?”
Người
lính đứng nghiêm –một người lính rất trẻ- gập người xuống chào một cách kính cẩn
rồi nói:
“Thưa
đại đội trưởng. Chính tôi.”
Sau
đó người lính hỏi dồn dập:
“Đại
đội trưởng, ông hãy nói thật với tôi đi. Có phải tôi đã tử trận rồi không? Tôi
không tin điều đó. Tôi nhớ là tôi đã đi về nhà và đã ăn những cái bánh mẹ tôi đặc
biệt làm cho tôi. Tôi nhớ rõ lắm.”
“Noguchi,
em đã từng nói với tôi như vậy. Em trúng đạn và ngất xỉu. Rồi em tỉnh dậy. Tôi
đỡ em trên tay. Em nói với tôi là em đã đi về nhà và ăn những cái bánh đặc biệt
do mẹ em làm. Tôi rất xúc động. Tôi nhớ rõ mồn một. Nhưng… Noguchi. Đó chỉ là một
ước mơ. Em mơ ước điều đó khi em hôn mê. Khoảng năm, sáu phút sau em tắt thở.
Em chết thật rồi mà.”
Noguchi
lảo đảo, rồi đứng nghiêm và gào lên:
“Vâng…Nhưng…
ba mẹ tôi vẫn tin là tôi còn sống.”
Noguchi
khóc. Anh bước vài bước rồi chỉ tay về phía một ánh đèn ở đằng xa, quay lại nói
với người sĩ quan:
“Nhà
tôi đó. Mẹ tôi và ba tôi đang ở đó. Họ đang chờ tôi.”
Người
sĩ quan đến gần Noguchi, nói nhỏ nhẹ:
“Sự
thật… em chết rồi. Tôi buồn lắm… Nhưng… sự thật em chết rồi.”
Binh
nhì Noguchi mếu máo. Anh lảo đảo bước trở lại đường hầm. Người sĩ quan yên lặng
nhìn theo rồi bỗng kêu to “Noguchi”. Noguchi quay lại, đứng nghiêm, bồng súng
chào. Người sĩ quan nghiêm chỉnh chào lại. Noguchi thất thểu đi trở lại rồi biến
mất trong đường hầm.
Người
sĩ quan sắp sửa cất bước. Bỗng anh lại nghe từ trong đường hầm tiếng đi rầm rập
của một toán quân. Một toán quân cũng trang bị đầy đủ như khi lâm trận, oai
nghiêm, bước đều ra khỏi đường hầm. Anh giật mình thối lui, rối đứng lại nhìn.
Khi toán quân tiến đến gần anh, người dẫn đầu hô to ra lệnh toán quân dừng lại,
ra lệnh bồng súng chào, rồi dõng dạc nói:
“Trình
diện đại đội trưởng. Trung đội 3 đã trở về doanh trại… Hoàn toàn vô sự.”
Người
sĩ quan nhìn chằm chặp vào toán quân. Nửa cười, nửa mếu. Một phút im lặng… anh
lấy hết bình tĩnh, rối nói:
“Các
anh em nghe đây. Tôi hiểu tâm trạng các anh em. Nhưng… sự thật là… Trung đội 3
đã hoàn toàn bị tiêu diệt… anh em đều tử trận. Tôi buồn lắm. Tôi lại không chết
để sống sót đến ngày nay. Rất khó cho tôi nhìn thẳng mặt các anh em. Tôi đã
tung Trung đội 3 vào trận chiến để rồi tất cả đều bị giết. Lỗi tại tôi. Tôi có
thể đổ hết trách nhiệm cho cái phi lý của chiến tranh. Thế nhưng, tôi không làm
điều đó được. Không làm sao để tôi có thể phủ nhận cách quyết định thiếu suy
nghĩ và thái độ tắc trách của chính tôi. Thế nhưng, tôi đã bị cầm tù. Những năm
tháng ở tù, tôi nhục nhã và chua xót đến độ tôi tin là nếu chết được vẫn hay
hơn. Giờ này, nhìn thẳng mặt các anh em, tôi vẫn có cùng cảm giác như vậy. Tôi
biết các anh em còn đau đớn hơn tôi nhiều. Nhưng… nói thật… tôi mong chết ngoài
chiến trường. Tin tôi đi… tôi chỉ mong được chết như anh em. Tôi cảm nhận được
nỗi cay đắng của anh em. Người ta gọi anh em là những “anh hùng“, nhưng… anh em
đã chết đau đớn như những con chó (2). Thế nhưng, dù gì đi nữa, trở lại thế
gian như thế này chẳng chứng tỏ được gì cả. Hãy về lại nơi nằm nghỉ của mình
đi. Hãy yên giấc với ngàn thu đi.”
Gài
lại nút áo cho nghiêm chỉnh, lấy hết sức bình sinh hô “nghiêm”, hét thật to ra
lệnh cho trung đội quay lại. Tring đội 3 làm theo lệnh anh, bước răm rắp trở lại
đường hầm. Có tiếng kèn chiêu hồn tử sĩ.
*
Có phải cái ước mơ của Kurosawa là “một
sĩ quan dù chỉ ở cấp đại đội trưởng cũng phải chịu ám ảnh và nhận trách nhiệm,
với cả đau đớn lẫn thương yêu, về những cái chết của đồng đội, kể cả cái chết của
một con quân khuyển mà có lẽ vào lúc tuyệt vọng nơi chiến trường, anh đã cho gắn
chất nổ vào người nó và bắt nó lao đầu vào phía địch”? Dầu sao, đây cũng là một
ước mơ của rất nhiều người trong chúng ta.
Có ai biết được sự thật trong trận chiến
vừa qua, bao nhiêu thường dân Việt Nam đã bỏ mình, và bao nhiêu người còn sống
sót đã phải hủy hoại tuổi xanh của họ? Một triệu? Hai triệu? Ba triệu? Có biết
bao nhiêu người đã ngã gục, thường dân hay lính, chỉ vì do tham vọng cá nhân,
do thái độ vô trách nhiệm, do kém tài năng, do những quyết định sai lầm vội vã
của cấp chỉ huy? Không làm sao đếm được. Nhưng với những con người Việt Nam
bình thường, đã từng nghe bom đạn, đã từng nhìn thấy xác chết vì bom đạn, đã
lăn lóc trên quê hương trong những ngày chinh chiến, cũng hiểu được là con số
đó không nhỏ. Đọc các hồi ký chính trị và quân sự của những cựu chính trị gia,
cựu tướng lãnh, của cả miền Nam lẫn miền Bắc, mấy ai nghe thấy một lời nhận lỗi?
Lính chết, dân chết, đồng bạn chết, nhiều khi chỉ do thái độ tắc trách, hốt hoảng,
kém tài, hoặc hèn nhát của cấp chỉ huy ở bất kỳ cỡ nào. Các đài truyền hình Mỹ
thỉnh thoảng chiếu đi chiếu lại cảnh những người lính Cộng Hòa vừa chạy vừa bắn
bừa bãi vào dân chúng để giành đường thoát vào những ngày cuối của cuộc chiến.
Người lính Việt Nam ngồi xem đau thắt cả ruột gan. Ai chỉ huy họ? Tiểu đoàn trưởng,
đại đội trưởng, trung đội trưởng nào? Hiện giờ những người chỉ huy này đang ở
đâu?
Sách báo Việt Nam ở hải ngoại hàng hàng
lớp lớp. Vô số chữ nghĩa đã được dùng để chửi người Mỹ bỏ cuộc, chửi cấp trên,
chửi cấp dưới, chửi lẫn nhau. Bao nhiêu chữ nghĩa đã được dùng cho những lời nhận
lỗi?
Cuộc chiến triền miên trên quê hương Việt
Nam đã cướp mất bao nhiêu tinh anh của đất nước. Đáng buồn thật. Nhưng đáng buồn
nhất, là trong suốt sáu trăm năm qua, đâu có phải sự hy sinh lớn lao đó lúc nào
cũng hoàn toàn là để bảo vệ đất nước chống ngoại xâm. Trong hơn bốn trăm năm, từ
khi đánh đuổi quân Minh đến khi đánh đuổi quân Thanh, chiến tranh ít khi ngưng
nghỉ nhưng nào có phải để bảo vệ lãnh thổ. Suốt gần hai trăm năm, vó ngựa chinh
phu Việt Nam vượt qua vượt lại sông Gianh cũng chỉ để giết nhau mà thôi. Đi vào
nơi gió cát hay xông vào bãi chiến trường, có khi vì bó buộc, vì bổn phận, vì
không có cách thoát, mà có khi cũng chỉ do cái lãng mạn của tuổi trẻ. Nhưng dù
vì lý do gì, và thây có được da ngựa bọc (chỉ có trong thơ văn!) hay chỉ để làm
mồi cho kên kên quà quạ, thì những mất mát như vậy cũng là những định mệnh nghiệt
ngã của người trai trẻ Việt Nam. Một vấn đề cần đặt lại là có phải điều này
phát sinh từ cái định mệnh nghiệt ngã chung của dân tộc hay đó chỉ là hậu quả của
những nhận thức sai lầm về giá trị của đời sống chồng chất từ thế hệ này đến thế
hệ khác? Dẫu sao cũng vẫn là điều đau lòng. Phải xót xa lắm, cụ Đặng Trần Côn mới
viết những câu:
Hồn
tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt
chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh
phu tử sĩ mấy người
Nào
ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
(Chinh Phụ Ngâm Khúc)
Thế nhưng, có lẽ cần phải dừng lại một
chút để nhìn vấn đề cho kỹ hơn.
Trong loạn ly, cái đau thương đâu phải
chỉ đến với người lính. Hay, nói cho đúng hơn, trong loạn ly, cái đau thương lớn
nhất vẫn không đến với người lính. Nó đến với vô số người mẹ, người vợ, những đứa
con thơ và cho rất nhiều thường dân vô tội. Mà ngoài cái đau đớn, sự hy sinh của
những con người đáng thương này thì sự can đảm, sức chiến đấu kiên trì của họ
nhiều khi phải được kể là vượt qua những người lính. Những ai đã ở lại miền Nam
sau 75 chắc chứng kiến được điều đó. Người cầm súng đã bỏ cuộc nhưng những người
không cầm súng đã không bỏ cuộc. Họ phải tiếp tục chiến đấu cật lực với cuộc đời.
Và, nếu sau đó, cuộc đời đã không đến nỗi tàn mạt như bãi chiến trường, thì điều
đó phải là do công của họ. Chính họ, chớ không phải những người cầm súng, đã
khiến cho cuộc đời phải tiếp tục, theo một chiều hướng khác, không theo ý muốn
của những người nắm quyền lực mới. Trong tập hồi ký về tù cải tạo của Tạ Chí Đại
Trường (3), người viết sử này nói nhiều về họ. Ông cũng ghi lại nhiều chuyện thật
mà thường chỉ được nghe những cựu tù nhân kể lại ở ngoài đời. Những chuyện mà
khi nghe, người lính Việt Nam không muốn nhớ. Rất ít thấy hay không thấy ghi lại
trong những hồi ký khác. Ông kể chuyện những người vợ phải bán thân để nuôi chồng,
hay tệ hại hơn, chỉ để chiều chuộng những thói quen hưởng thụ rất vị kỷ của chồng
cho dù vào lúc đó các ông ấy đang ở trong tù. Nói chung, thì hầu hết phải vật lộn
cực khổ với đời sống, chắt chiu tiền bạc, bồng bế dìu dắt con thơ, băng qua biết
bao nhiêu dặm đường để mang quà đến trại học tập thăm nuôi chồng. Có ai đếm được
bao nhiêu người đàn bà đã ngã quỵ trong những hoàn cảnh như vậy? Có ai đếm được
bao nhiêu trẻ thơ chết oan uổng dọc bờ, bụi nào trên quê hương trong và sau cuộc
chiến? Mấy ai gọi hồn họ?
Cụ Đặng Trần Côn ca ngợi người chinh
phu. Nhưng cụ vẫn cảm thông được cái đau đớn của người chinh phụ. Khi vó ngựa
những chinh phu Việt Nam vẫn liên tục vờn nhau trên khắp quê hương, cụ chong
đèn ngồi viết Chinh Phụ Ngâm Khúc. Cụ chia sẻ nỗi lòng của người chinh phụ hơn.
Tác phẩm của cụ sống mãi, có lẽ một phần vì nó gắn với cuộc đời thật. Cho dù,
người chinh phụ mà cụ tả trong ngâm khúc chưa đến nỗi tiêu điều, tan tác như
người chinh phụ mà chúng ta đã thấy hay đã biết trong cuộc chiến vừa qua trên
quê hương Việt Nam. Dĩ nhiên, như đã nói ở trên, ngoài người chinh phụ, còn biết
bao nhiêu người khác cũng tiêu điều tan tác như vậy.
Trở lại cuốn phim của Kurosawa. Sau
chuyện “Con đường hầm”, ông còn trình bày nhiều giấc mơ khác, liên hệ đến nghệ
thuật, đến khoa học, đến nhân sinh quan v.v… Cũng do tài tử đóng vai người sĩ quan thủ vai chính. Cũng có thể,
những phần tiếp theo là những giấc mơ của chính anh sĩ quan đó. Sau khi ra khỏi
đường hầm, anh tiếp tục cuộc đời của anh, với những ước mơ mới, những ám ảnh cũng
như những lo sợ mới. Trên thực tế, sau khi thua trận, người Nhật đã sống như vậy.
Họ đã để lại đằng sau lưng cuộc chiến cũ, xông vào những cuộc chiến mới. Họ đã
thành công vượt bực, họ cũng đã quên khuấy đi rất nhiều điều phải làm để đời sống
có nghĩa lý hơn. Cũng như đã hủy hoại nhiều điều lẽ ra phải được xem là giá trị
thật của cuộc đời. Chính vì vậy mà Kurosawa đã phải nói lên những giấc mơ của
ông. Những giấc mơ đó không phải chỉ dành cho người Nhật, mà cả cho chúng ta, mặc
dù cái hiện thời ám ảnh chúng ta nhiều nhất vẫn còn loanh quanh ở chỗ con đường
hầm.
Thử tưởng tượng tâm trạng của tướng
quân Ban Siêu ngày xưa khi trở về. Ông sẽ có cảm giác ra sao vào một buổi sáng
chợt thức giấc, nghe tiếng trẻ con nô đùa, tiếng chày giã gạo, tiếng khung cửi
dệt vải, tiếng thầy đồ dạy học… tiếng sương phụ khóc chồng.
Không biết ông sẽ nghĩ sao nếu có một
chàng trai trẻ giống như ông mấy mươi năm trước, hay một người bạn cũ hồn
nhiên, đến nói với ông một cách say sưa về ước mơ một đời chỉ có sống trên lưng
ngựa?
Trương
Vũ
Cuối
năm 1993
(Trích trong cuốn HAI MƯƠI NĂM VĂN HỌC
VIỆT NAM HẢI NGOẠI)
(1) Trích
từ bản dịch Nôm được ghi là của Đoàn Thị Điểm do Nguyễn Huy chú giải, nhà Đại
Nam (California) in lại.
“Chàng
Siêu” chỉ tướng quân Ban Siêu đời Hán, chinh chiến từ lúc còn trẻ, lập được nhiều
chiến công, khi trở về thì đầu đã bạc.
(2) Nguyên
văn phụ đề tiếng Anh “I feel your bitterness. They called you “heroes”… but you
died… like dogs.”
Phim
“Dreams” do chính Akira Kurosawa viết truyện phim và đạo diễn. Ông là người đã
thực hiện những phim nổi tiếng nhất của Nhật như Lã Sanh Môn, Địa Ngục Môn…