TRƯƠNG VŨ
Nhìn
lại
phong trào văn nghệ phản kháng
phong trào văn nghệ phản kháng
tại
Việt Nam từ 1986 đến 1989
Làm Sao:
sơn dầu trên bố, 24" x18"
Trương
Vũ ( 2011)
Bài viết này nguyên là bài
thuyết trình cảa tác giả tại Ðại Học George Mason, Virginia, đầu tháng Tư 1995, trong một
hội thảo mang đề tài "Ngòi Bút và Bạo Quyền". Hai diễn giả được mời là
Trương Vũ và nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Bài viết đã được đăng tải trên tạp
chí Hợp Lưu, phát hành trong tháng đó. Với văn học nghệ thuật Việt Nam ngày
nay, nhiều vấn đề được trình bày trong bài vẫn còn giá trị thời gian.
Ðối với nhiều người Việt, đặc biệt là
với đồng bào miền Bắc, cuộc chiến chấm dứt vào 1975 có thể đã đem lại cho họ
một niềm vui về một đất nước thống nhất, về một cơ hội để tái thiết xứ sở, và
về một tương lai không còn cảnh huynh đệ tương tàn. Thế nhưng, những biến cố
tiếp liền theo đó, xảy ra trong hòa bình và trong khung cảnh của một đất nước
thống nhất, đã làm nản lòng rất nhiều người. Quản lý kinh tế sai lầm, tham
nhũng ở mọi cấp độ, vi phạm nhân quyền, hàng trăm trại học tập, chiến tranh với
Campuchia và Trung Quốc, cuộc vượt biển ồ ạt và bi thảm v.v... là những động
lực đánh thức lại một niềm tin nơi trí thức và văn nghệ sĩ là chủ nghĩa Cộng
Sản quả thật là một giải pháp thất bại cho những vấn đề xã hội và con người của
đất nước Việt Nam.
Niềm tin này của trí thức và văn nghệ
sĩ xuất thân từ miền Nam mãnh liệt như thế nào không là một vấn đề để bàn cãi,
nhưng nhận diện và đánh giá nó cho công bình với trí thức và văn nghệ sĩ miền
Bắc đòi hỏi nhiều công phu hơn do tính cách phức tạp của xã hội miền Bắc, dù
trước hay sau 1975. Trong một thời gian khá lâu, sau kinh nghiệm tàn bạo của vụ
án “Nhân Văn Giai Phẩm” vào 1958, trí thức và văn nghệ sĩ miền Bắc không còn
muốn dính dự vào những vấn đề chính trị có tính cách tranh cãi. Tuy nhiên, dầu
muốn dầu không, sau 1975, họ phải chạm trán với một thực tế hoàn toàn trái
ngược với những điều dự đoạn. Những khác biệt quá lớn giữa cái họ thực sự
thấy với cái lẽ ra họ nên thấy bắt đầu khiến họ chao đảo. Một số nhà
văn và trí thức, trong đó có Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến và Nguyên Ngọc,
công khai phát biểu sự bất mãn của mình đối với thực trạng của đất nước, đặc
biệt trong lãnh vực văn học và nghệ thuật. Với những bài viết vẫn thường được
bắt đầu bằng cách biểu lộ lòng biết ơn với Ðảng như lâu nay, họ đặt ra những
câu hỏi nhức nhối liên quan đến các sinh hoạt trí thức hiện tại.
Trong một tiểu luận mang tựa đề “Viết
Về Chiến Tranh” (Văn Nghệ Quân Ðội, tháng 11 năm 1978). Nguyễn Minh Châu đả
kích cách xây dựng tác phẩm của hầu hết những nhà văn thời kỳ đó là họ chỉ viết
về những hiện thực ước mơ chớ không phải viết về những hiện thực đang
tồn tại. Tán đồng với nhận định của Nguyễn Minh Châu, nhà phê bình Hoàng
Ngọc Hiến viết một bài nhan đề “Về Một Ðặc Ðiểm Của Văn Học Nghệ Thuật Ở Ta
Trong Giai Ðoạn Vừa Qua” trong đó ông đề nghị nên gọi nền văn học nghệ
thuật hiện đại của Việt Nam là một nền văn học nghệ thuật phải đạo, có
nghĩa là, “quan tâm đến sự phải đạo nhiều hơn là tính chân thật”. Cũng
trong tháng đó, Nguyên Ngọc trình bầy một đề cương về sáng tác văn học trong đó
ông kịch liệt đả kích chất lượng yếu kém của những tác phẩm văn học hiện đại.
Ðề cương này mãi chín năm sau mới được phổ biến, nhưng chỉ phổ biến một phần
trên tạp chí Langbian ở Ðà Lạt. Trong đề cương đó ông đã viết những câu như
sau:
“Cũng từ đó đưa tới tình trạng:
“Phải chăng lúc này có hiện tượng không ít phổ biến là người viết, vẫn cứ viết
mà không thực tin ở điều mình viết ra?” Người là muối mà chính người lại không
mặn thì biết lấy gì để muối người? Văn học, nói theo một cách nào đấy, là lòng
tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có thể có văn học lớn. (...) Cảm
giác “có nhiều sách mà không có tác phẩm” là như thế. Người đọc thờ ơ với chính
những quyển sách mình vừa đọc, tuy chẳng có gì để chê bai nó. Có một không khí
mệt mỏi, lạnh nhạt giữa người viết và người đọc.”
Những bài viết nói trên đã gây phản ứng
mạnh từ phía những người bảo thủ và thành phần cốt cán của chế độ. Chẳng hạn,
trong một bài viết đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Nghệ Thuật (Tháng Giêng
1980), Kiều Vân biểu lộ một cách khá hằn học, dùng trường hợp của Lucas để ngụ
ý là những người này đã “đòi hỏi một kiểu tự do vô lối trong sáng tác, vu khống
xuyên tạc đối với xã hội xã hội chủ nghĩa, tấn công một cách kiên trì
vào nền văn học mang tính đảng và tính có khuynh hướng”. Thế nhưng, từ phía
đông đảo nhà văn, nghệ sĩ và trí thực, có một sự yên lặng đáng ngạc nhiên,
không giống như vào thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đa số đã nhảy vào đánh hùa theo
với Ðảng. Có thể là đa số đã đồng ý với những nhận định của Nguyễn Minh Châu,
Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, nhưng thời điểm đó còn quá sớm để họ dám chấp
nhận hiểm nguy nói lên sự đồng tình của mình. Dầu thế nào đi nữa, một số tác
phẩm biểu lộ sự bất mãn và mất niềm tin bắt đầu hình thành trong giai đoạn đầu
của thập niên 80, đáng kể nhất là thơ của Nguyễn Duy và các truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu.
Tháng 8 năm 1987, khoảng hơn một năm
trước khi mất, Nguyễn Minh Châu viết một tiểu luận để đời: “Hãy Ðọc Lời Ai
Ðiếu Cho Một Giai Ðoạn Văn Nghệ Minh Họa”. Trong đó, ông thú nhận là cho
đến bấy giờ, vì sợ sệt, nhà văn đã trở nên hèn nhát và hành động thậm thụt như
những gian phi. Ông kêu gọi các đồng nghiệp hãy chôn đi một nền văn nghệ như đã
có trong quá khứ và dồn mọi nỗ lực để chuẩn bị một không khí sáng tác lành mạnh
hơn cho những tài năng của thế hệ tới. Ông viết: “(...) Văn chương gì mà
muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn, hèn chứ? Nhà văn nước
mình tận trong tâm can ai mà không thấy mình hèn? Cái sợ nó làm mình hèn. (...)
Mấy chục năm qua, tự do sáng tác chỉ có đối với lối viết minh họa, văn học minh
họa, với những cây bút chỉ quen với công việc cài hoa kết lá, vờn mây cho những
khuôn khổ có sẵn, cho chữ nghĩa những văn bản vốn đã có sẵn mà chúng ta quy cho
đây đã là tất cả hiện thực đời sống đa dạng và rộng lớn. Nhà văn chỉ được giao
phó công việc như một cán bộ tuyên huấn truyền đạt đường lối, chính sách bằng
hình tượng văn học sinh động. (...) Tài năng, nhất là những thiên tài, bao giờ
cũng như là của bắt được, của trời cho, ai mà biết được bao giờ thì họ đến.
Nhiệm vụ của chúng ta là chuẩn bị bầu không khí cho họ thở, cho họ sống, đừng
giết chết họ, đừng ghen tị với họ, đừng làm họ thui chột trí tuệ lẫn tình cảm,
đừng khiến họ cuối cùng trở thành chúng ta.”
Hai tháng sau, dưới áp lực của chính
sách đổi mới ở Liên Sô và Ðông Âu. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố sẽ đổi
mới chính sách của Ðảng Cộng Sản Việt Nam. Tháng 12 năm 1987, nghị quyết số 5
về đổi mới trong văn học và nghệ thuật được ban hành. Chính sách đổi mới này đã
làm cho sự nhận diện thật giả về tính phản kháng trong văn nghệ trở nên phức
tạp hơn, nhất là từ phía đồng bào ở hải ngoại.
Dầu sao, chính sách đổi mới, thường
được gọi nôm na là “chính sách cởi trói”, đã giúp tạo nên một cơ hội làm bùng
dậy một phong trào văn nghệ sinh động ở trong nước, đúng ra là ở miền Bắc.
Phong trào văn nghệ này bao gồm nhiều cây viết tên tuổi. Về phê bình lý luận,
có Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà. Về kịch, có Lưu Quang Vũ, Tất
Ðạt. Về điện ảnh, có Trần Văn Thủy, Việt Linh. Về thơ, có Nguyễn Duy, Trần Vàng
Sao. Sôi động nhất là về sáng tác văn chương với những tên tuổi như Nguyễn Huy
Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Trần Mạnh Hảo, Nhật Tuấn, Nguyễn Quang
Lập, Bảo Ninh v.v... Hầu hết trong số này chỉ được biết đến hoặc thành danh sau
1975. Những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ, những bất mãn mà họ cố kềm
giữ lâu nay, được dịp nổ bùng lên. Do đó, tác phẩm của họ mang những sắc thái
chính sau đây: phản kháng sự áp đặt quyền lãnh đạo của Ðảng lên trên quyền
sáng tác của nhà văn; phủ nhận “công lao” của chủ nghĩa cộng sản trong hai cuộc
chiến; quy kết cho xã hội chủ nghĩa về tình trạng nghèo đói, phân hóa, bất
công, và chậm tiến; đòi quyền của cá nhân được lựa chọn cách sống của mình; lên
án sự lạm quyền của cán bộ cao cấp đã tàn phá xã hội và con người; công kích sự
tôn sùng thần tượng; v.v...
Nguyễn Huy Thiệp được xem như tài năng
hàng đầu của phong trào này. Ông viết với đau đớn và tàn bạo. Ông nhìn xoáy vào
từng điểm đen tối nhất của đời sống. Ông lôi ra ánh sáng để đùa bỡn với những
khúc mắc ghê rợn của một xã hội trong đó ông sống và làm việc. Phong cách này
được nhìn thấy rõ nhất trong các truyện ngắn như “Tướng Hồi Hưu” và “Không
Có Vua” (sau này ông chuyển sang thành kịch). Nói chung, ông là một nhà văn
viết ngay thẳng nhưng sâu sắc, có nét riêng của mình, và là một nhà văn nổi
giận. Sự nổi giận của ông bộc lộ tận cùng khi ông viết “Tội Ác Và Hình Phạt”.
Có những câu như: “Tội ác cứ nhân thêm. Và đến lúc nào đấy, trên cái mảnh
đất khốn nạn này, trên cái mảnh đất yêu dấu của chúng ta sẽ bốc lửa. Sự trừng
phạt đến. Sẽ đến ngày phán xử cuối cùng.”
Khác với tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp,
truyện dài Những Thiên Ðường Mù của Dương Thu Hương bao phủ một không
khí hoài niệm, tăm tối, sầu thảm. Cái thiên đường mà Dương Thu Hương ngụ ý ở
đây chỉ là một thiên đường của những kẻ đã đánh mất nhân tính hay của những kẻ
bị chà đạp, bị lóc lột, bị xem khinh. Một thứ thiên đường chỉ có nghèo đói,
lạnh lẽo, và cô đơn. Một thứ thiên đường mù lòa. Một trong những nhân vật chính
trong truyện là cậu Chính, một cán bộ tuyệt đối trung kiên với Ðảng. Trong
truyện, Dương Thu Hương đã cho một chàng tuổi trẻ đầy tính người, nói về cậu
Chính như sau: “Họ là những kẻ đã phao phí gần hết đời sống của mình vào
việc vẽ nên một thiên đường dưới trần ai, nhưng trí khôn ngắn ngủi của họ lại không đủ hiểu thiên đường ấy ra sao
và con đường nào đưa tới nó. (...) Vì thế, khi biết công việc ấy hão huyền thì
họ hối hả tìm kiếm những miếng ăn thực, nhặt nhạnh những hạt ngũ cốc thực trên
mảnh đất bùn lầy. Họ làm việc ấy, bất kể bằng cách nào... Họ, là tấn thảm kịch
cho chính họ, là tấn thảm kịch cho thế hệ chúng ta.” Trong một bài trả lời
phỏng vấn, Dương Thu Hương đã phê phán việc du nhập chủ nghĩa Mác Lê vào Việt
Nam như sau: “Việc chúng ta quy chụp cuộc đấu tranh giai cấp vào đất nước ta
(với các điều kiện thực tiễn hoàn toàn không phù hợp) đã tiêu hủy một trữ năng
tinh thần của dân tộc. Chúng ta đã tự tận diệt lẫn nhau, nồi da xáo thịt, đã để
lại những vết thương lịch sử nặng nề, khiến cho lòng người ly tán, thù hận, đã
phân tán sức mạnh tự thân của người Việt. (...)
Lẽ ra chúng ta có thể tránh khỏi những sự trả giá lịch sử không cần
thiết. (...) Nhưng giờ đây tôi xin nhắc lại lần nữa, việc giãi ão, việc công
khai hóa đời sống tinh thần, việc dũng cảm từ bỏ đời sống quá khứ... tất cả
đang là những gánh nặng mà người trí thức không thể nào lẩn trốn. (...)”
Trong một bài thơ đã gây nhiều phản ứng
sôi nổi, Nguyễn Duy biểu lộ một thái độ khinh miệt tận cùng về việc xây dựng
thần tượng mà ông coi như chẳng khác gì xào nấu các món ăn, trong bài thơ tựa
đề “Nhìn Từ Xa... Tổ Quốc”:
Thần tượng giã xèo xèo phi hành mỡ
Ợ lên thum thủm cả tim gan
Và, ông cũng biểu lộ sự hoài nghi về
thiện chí đổi mới của Ðảng qua sự hoài nghi về chính bản chất của Ðảng:
Ðổi mới thật chăng hay giả vờ đổi mới?
Máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
Những gì xẩy ra vài năm sau đó chứng tỏ
sự hoài nghi của Nguyễn Duy quả thật có cơ sở. Ðến khoảng cuối năm 1989, phong
trào Văn Nghệ Phản Kháng bắt đầu gặp phản ứng mạnh từ phía cầm quyền và từ phía một số văn nghệ sĩ
thuộc cấp lãnh đạo chính trị, kể cả một số người lúc đầu có cảm tình với phong
trào này. Ðảng bắt đầu thắt chặt sự kiểm soát của họ về xuất bản và đẩy những
phần tử “nguy hiểm” ra khỏi các chức vụ quan trọng trong lãnh vực văn học nghệ
thuật. Ðáng kể nhất là việc cách chức Nguyên Ngọc khỏi chức vụ Tổng Biên Tập
báo Văn Nghệ vào tháng 12 năm 1989. Vì tình trạng chính trị trên thế giới vào
thời điểm này đã đổi khác, phản ứng của đảng CSVN khôn ngoan hơn, không tàn bạo
trên mặt nổi giống như cách họ áp dụng với phong trào Nhân Văn Giai Phẩm vào
1958 và sau đó, thế nhưng nó vẫn hữu hiệu. Ðến cuối năm 1990, phong trào này
mất hẳn khí thế của nó. Thêm vào đó, những đổi thay về kinh tế trên đất nước
Việt Nam cũng đồng thời làm mờ đi ảnh hưởng của văn chương đối với xã hội và
con người. Ngày nay, thỉnh thoảng cũng thấy xuất
hiện một số tác phẩm mang nội dung phản kháng, như trường hợp truyện ngắn “Linh
Nghiệm”. Thế nhưng, cái phản kháng trong văn chương chúng ta đã thấy như
một phong trào lớn mạnh vào thời điểm từ 1986 đến 1989, thật sự không còn nữa.
Giờ đây, nhìn lại, chúng ta thấy thành
công đáng kể nhất của họ là sự can đảm nhìn thẳng vào mình, vào những công
trình của chính mình, và kích động niềm đam mê của người cầm viết được sống
thật, viết thật với điều mình tin, điều mình thấy. Thế nhưng nếu sự vùng dậy
của văn chương vào thời kỳ đó có một số điểm mạnh về các vấn đề liên quan đến xã
hội, chính trị, và con người thì về mặt văn nghệ, phong trào đó còn rất nhiều
hạn chế. Ngoài Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, không có nhiều nỗ lực lớn để
làm mới văn học nghệ thuật trên căn bản nghệ thuật thuần túy. Và, cái điểm đáng
chê trách nhất đối với phong trào này, là với con số gần 80 người làm nghệ
thuật có tài năng, họ vẫn còn giới hạn cái nhìn của họ về một đất nước như thể
vẫn còn bị chia đôi như trước 75. Trong tác phẩm của họ, người đọc rất khó tìm
thấy hình ảnh của những con người ở phần đất phía Nam. Càng rất khó tìm thấy
những hình ảnh trung thực, ngoại trừ trong “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của
Bảo Ninh. Và, những đau đớn, những nghiệt ngã của người dân Việt Nam mà họ cảm
nhận được để mang vào tác phẩm, cũng chỉ là những đau đớn, những nghiệt ngã của
người dân Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 17. Cho đến nay, hai mươi năm sau khi
cuộc chiến chấm dứt, hiện tượng này vẫn không thay đổi bao nhiêu. Dầu sao đi
nữa, chỉ riêng về phương diện can đảm của người cầm bút chống lại những áp lực
của người cầm quyền, những bất công trong xã hội mà họ sống, thì quả thật,
chúng ta phải dành cho họ một sự kính trọng đặc biệt, và phải dành cho họ một
nhận diện và đánh giá công bình.
Nếu phong trào Văn Nghệ Phản Kháng ở
miền Bắc làm cho ta liên tưởng, một cách đơn giản, đến tương quan giữa Ngòi Bút
và Bạo Quyền, thì trên một nghĩa nào đó, Bạo Quyền đã thắng. Có thể nó chỉ
thắng tạm thời, và không có mấy ai nói trước được những gì sẽ thực sự xẩy ra
trên quê hương trong những ngày tới. Thế nhưng, có tạm thời hay không thì điều
đó tùy thuộc rất nhiều vào cái cách mà thế hệ chúng ta, ở cả trong lẫn ngoài
nước, và những thế hệ mai sau đương đầu với nó. Trong sự đương đầu đó đóng góp
của người Việt ở hải ngoại có thể không nhỏ, với điều kiện là chúng ta chịu
nhìn lại một cách thẳng thắn về những gì chúng ta đang có ở hải ngoại, để đương
đầu với Bạo Quyền hay Bạo Lực nói chung, để thắng Bạo Lực. Nhìn lại những gì
xẩy ra vào thời kỳ Văn Nghệ Phản Kháng, nhận diện, đánh giá, khen chê... là
những điều nên làm. Tuy nhiên, những điều này sẽ chẳng có nghĩa lý gì hơn là
một nghiên cứu trí thức, nếu chúng ta không nhìn lại chính mình để biết mình
muốn gì và đâu là khả năng thật sự của mình. Phải nhìn một cách thẳng thắn,
không phải nhìn một cách phải đạo, có nghĩa là không phải nhìn bằng cái cách mà
mười lăm năm trước đây ở trong nước, dưới Bạo Lực, Nguyễn Minh Châu đã lên tiếng đề nghị
mọi người nên chôn nó đi, bởi vì nó hủy hoại nghệ thuật, hủy hoại cái phần trí
thức của con người, và dĩ nhiên nó sẽ làm cho đời sống thiếu hẳn chất lượng.
Ngòi Bút và Bạo Lực là hai thứ không
thể cùng sống chung với nhau mà không làm biến thái hoặc triệt tiêu nhau. Ngòi
Bút thật mạnh thì Bạo Lực triệt tiêu, Ngòi Bút mạnh vừa phải thì Bạo Lực chỉ
biến thái và ngược lai.
Nói về tương quan giữa Ngòi Bút và Bạo
Lực, cái mà chúng ta đang có ở hải ngoại là cái gì? Về
một phương diện nào đó, chúng ta cách xa quê hương nên không bị chi phối bởi
Bạo Lực theo cái cách mà đồng bào chúng ta trong nước phải chịu. Chúng ta tự do
hơn, chúng ta an toàn hơn. Nhưng đồng thời, về một phương diện khác, do ảnh
hưởng của thời đại bùng nổ truyền thông, do liên hệ tình cảm cố hữu của người
Việt với quê hương, do những đi lại thường xuyên giữa hải ngoại và trong nước
(180 ngàn người Việt ở hải ngoại về thăm đất nước trong năm 1994), trên một
nghĩa nào đó, cộng đồng Việt Nam hải ngoại rất gần với quê hương. Ảnh hưởng của
cộng đồng để tạo nên những đổi thay trên quê hương không thể nào nhỏ được, dù
là ảnh hưởng cộng hay ảnh hưởng trừ, tôi muốn nói, ảnh hưởng tốt hay ảnh hưởng
xấu. Thế nhưng trí nhớ của người Việt cũng quá tốt và do đó, cái ám ảnh từ kinh
nghiệm chua chát, xót xa, nghiệt ngã và những mất mát liên quan đến biến cố 75
không phai nhạt trên các sinh hoạt của ngòi bút. Cho nên, hai mươi năm qua, dù
thật sự tâm tình của người Việt đã thay đổi như thế nào, dù đại bộ phận của dân tộc
là những người chỉ đã trưởng thành sau 75, dù thế giới đã đổi thay như thế nào,
chúng ta vẫn có khuynh hướng nhìn những tranh chấp trên quê hương nó đơn giản
như cả thế giới chẳng có gì đổi thay cả. Và rồi qua ngòi bút, qua báo chí, qua
sách vở, qua tuyên ngôn, qua thông cáo, chúng ta tiếp tục tạo nên những hận
thù giả tạo giữa chính chúng ta với những tranh chấp rất thật ở
chính nơi đây, tưởng chừng như chúng ta còn sống trong cái không gian cũ, vào
cái thời gian mà chúng la còn đang lao đao, vùng vẫy, chống cự, quay cuồng
trong khuôn khổ một cuộc nội chiến, với máu đổ hằng ngày, với một lằn ranh bạn
thù rõ nét, song song với lằn ranh lớn của một thế giới lưỡng cực trong Chiến
Tranh Lạnh. Ngày nay, thế giới lưỡng cực chỉ còn là đề tài của những nhà viết
sử, nhưng chỉ riêng một sự kiện “trong số mười người cầm bút bị sát hại trên
nước Mỹ, năm người thuộc cộng đồng Việt Nam hải ngoại”[i] cũng phải khiến
cho chúng ta suy nghĩ về cái tương quan giữa Ngòi Bút với Bạo Lực ở chính nơi
đây. Ở đây thật sự chúng ta có Tự Do. Bạo Lực thật ra ở rất xa, nhưng cái ám
ảnh về Bạo Lực đã khiến chúng ta kéo nó lại gần, không giết được nó, chng ta
giết lẫn
nhau,
chúng ta hành hạ lẫn nhau, chúng ta chụp nón cối cho nhau. Không khéo, chính
chúng ta, chớ không ai khác, chẳng phải Bạo Quyền hay Bạo Lực nào cả, sẽ làm
mất cái Tự Do mà chúng ta theo đuổi cả cuộc đời và cuối cùng có được với một
giá đắt vô cùng.
Ngòi Bút và Bạo Lực! Nếu Ngòi Bút đủ
mạnh để làm thăng hoa cuộc đời thì Bạo Lực tự nó sẽ đi ra khỏi cuộc đời. “Mạnh”
ở đây không phải với cái nghĩa “trong thơ có thép” mà với cái nghĩa có nghệ thuật, có sáng tạo,
có sức thu hút, có thuyết phục, có tình người... Sức mạnh của Ngòi Bút chúng ta
ở hải ngoại như thế nào? Về lượng chắc là nhiều lắm. Về phẩm, văn chương của
chúng ta có mới không, nội dung của nó có chứa đựng được những bức xúc, những
trăn trở, những khúc mắc, những suy tư của thời đại chúng ta, có khai mở cái
thẩm mỹ, cái tầm nhìn về tương lai cho chính chúng ta và những thế hệ sau này?
Hay, có phải đa số sách vở của chúng ta cũng chỉ là những lặp lại, bằng những
sự kiện khác nhau, theo cái lối phải đạo, minh họa của chúng ta, mặc dầu
nó có thể khác với cái lối phải đạo, minh họa của văn chương trong nước?
Trong điều kiện phức tạp, khó khăn như hiện nay, văn học và nghệ thuật Việt Nam
hải ngoại đã luôn có những nổ lực vượt bực. Tuy nhiên, khi nghĩ đến văn học
nghệ thuật, chúng ta buộc phải nghĩ đến những giá trị lớn, những mức đến xa và
không nên tự hài lòng với một so sánh nào đó. Những vấn đề này cần luôn được
thảo luận thẳng thắn, trong tinh thần xây dựng.
Điều trình bày trên liên quan đến người
viết. Trước khi dứt lời, tôi xin nói đôi điều liên quan đến người đọc. Ở hải
ngoại, sống hết lòng với văn chương khó lắm. Người đọc cũng nên dành cho những
nhà văn chân chính một sự cảm thông tối thiểu. Văn chương thuần túy nhắm đến
những cái thật cao đẹp, nhưng người viết văn vẫn có những đòi hỏi, những nhu
cầu rất bình thường, hay tầm thường. Người viết cần độc giả cũng như ca sĩ cần
thính giả. Văn chương hay đòi hỏi người đọc sách nghiêm chỉnh, ngược lại, người
đọc sách nghiêm chỉnh đòi hỏi văn chương phải hay, phải mới. Nhưng để được vậy,
người đọc phải có chút nỗ lực mới tìm được từ trong đống sách vở ngổn ngang
những gì gọi là văn chương. Thêm vào đó, người đọc cũng nên giúp cho các sinh
hoạt văn học nghệ thuật được khích lệ, được sinh động hơn, bằng những yểm trợ
rất nhỏ nhoi, rất tầm thường, như bỏ tiền ra mua sách. Hiện thời, tiền ở hải
ngoại không thiếu nhưng tiền để mua sách thì không nhiều.
Khi nói về Ngòi Bút và Bạo Quyền, hay
Bạo Lực, điều mà tôi nghĩ đến và mong rằng chúng ta sẽ không để cho xẩy ra ở
hải ngoại, lại là một tình trạng mà trước đây ở trong nước Nguyên Ngọc có nói
đến. Ðó là: một thái độ thờ ơ, mệt mỏi trước sách vở. Tôi muốn nói: sách
vở của văn học nghệ thuật Việt Nam. Thái độ đó, thưa quý vị, có khả năng
bẻ gãy Ngòi Bút còn mạnh hơn cả Bạo Lực.
Trương
Vũ
Maryland, tháng 4 năm 1995
[i] Trong
vòng 11 năm, từ 1981 dến 1992, có 10 ký giả bị ám sát tại Hoa Kỳ, tất cả đều
thuộc các cộng đồng thiểu số. Trong số này, có năm người Việt Nam (Dương Trọng
Lâm, 1981; Nguyễn Đạm Phong, 1982; Phạm Văn Tập, 1987; Đỗ Trọng Nhân, 1989; Lê
Triết, 1990), một người Do Thái (Alan Berg, 1984), một người Đài Loan (Henry
Liu, 1984), hai người Haiiti (Jean-Claude Olivier, 1991; Fritz d'Or, 1991), và
một người Colombia (Manuel de Dios Unanue, 1992).