Ảnh PCH - 2015
Nhìn qua tiểu đề A & B có thể không nghĩ là chuyện dân gian, đã
quốc ngữ lại thêm ab/xy có vẻ là chuyện toán học. Nhưng đó là hồi xưa “cơ” (!),
bây giờ quốc ngữ đâu chỉ dành riêng cho văn chương bác học, người ta vẫn nói với
nhau rằng: Ông/bà đó trình độ chỉ A-Bê, hay: Việc này tôi lo từ A tới Zét. Vậy
thì nói chuyện dân gian dưới tiểu đề A & B thiết tưởng không có gì là không
hợp lý. Thật tình thì… do chúng tôi vốn kém về việc đặt đề bài.
Thi sĩ Nguyễn Bính viết trong bài Đêm mưa đất khách: Bữa mộng ân
tình say đến sáng. Bài thơ tâm sự nghĩ không ra. Tửu nhập ngôn xuất, nhậu suốt đêm trường là dốc cả một trời
tâm sự, thế mà thi không chịu xuất. Đành chào thua.
Lại nhớ nhà nghiên cứu Lê Nguyên Tiệp, ban đầu “nghĩ không ra” bút
hiệu, ký tạm XXX, về sau do “3 chữ ích (x)” chuyển thành Tam Ích và nổi danh khắp
cùng nam bắc.
Tôi, một kẻ hậu sinh hèn kém, xin bắt chước thi hứng của tiền bối
Nguyễn và cách diễn đạt của tiền bối Lê, nhân khi bàn về những câu ca dao có
hai mặt đối lập nhau bèn “chơi” cái tiểu đề A & B cho gọn.
Những câu ca dao này không dài, chỉ là lục bát, vừa đủ 14 tiếng,
nhưng dẫn ra 2 ý tưởng trái ngược nhau, phần nhiều là đoạn bát (8 tiếng) trái
ngược với đoạn lục (6 tiếng), cũng có một số ít câu đoạn lục miêu tả hoàn cảnh
và đoạn bát nêu ra hai mặt của hoàn cảnh ấy.
Hai mặt gọi là đối lập A & B thường thấy như:
-muốn và sợ, muốn làm việc đó mà sợ, không dám làm,
-thương và ghét, lúc thương thế này, lúc ghét thế
khác,
-xa và gần, tùy theo cảm tưởng chủ quan của nhân
vật chủ động trong câu,
-vui và buồn, khi vui thế kia, khi buồn thế nọ
vân vân…
MUỐN VÀ SỢ
Con người sông ở trên đời ai cũng có nhiều ước muốn. Muốn, chứng tỏ
điều trong lòng yêu thích, hợp với đạo lý nghĩa tình. Muốn, cũng thể hiện dục vọng
tham lam ích kỉ. Có khi đã muốn là làm, chuẩn bị đầy đủ tinh thần, phương tiện,
cố làm cho được
-Muốn ăn con cá cả phải thả sợi câu dài
-Muốn ăn ong phải sắm đuốc, muốn làm dữ phải lo xa
Hay ít ra biết định hướng
Muốn tắm mát lên ngọn sông Đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Có khi muốn khơi khơi
Muốn tu chùa ngói Phật vàng
Chùa tranh Phật gỗ trong làng thiếu chi
Có khi muốn nhưng còn tính toán suy bì
Muốn về đất biển ăn cua
So đi tính lại cũng thua đất đồng
Có khi không muốn, chỉ sợ
Chim quyên ăn trái khổ qua
Nuốt vô sợ đắng, nhả ra sợ bạn cười
Đó là những trường hợp muốn
không nói đến sợ và chỉ sợ mà thôi. Nhiều trường hợp hàng hai, muốn mà sợ, hai trạng thái này đi với
nhau tạo ra một tâm lý có phần rắc rối.
Sợ điều gì?
Một là sợ trở ngại do thiên nhiên ngăn cách. Thời xưa, giao thông
bất tiện, đi lại khó khăn, lội bộ cả ngày trên đường đèo dốc núi rừng chẳng được
bao xa, lại thêm ác thú rình rập, sức lực con người đâu dám cự với cọp vằn, gấu
ngựa. Nhiều nơi còn nạn giặc cướp, có khi một hai tên chận đường lấy của, có
khi cả bọn giết người hãm hiếp. Sợ là phải.
Ngay cả những ai xuôi vạn lý mang danh tứ chiếng giang hồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang
Truông nhà Hồ: Truông là rừng. Truông nhà Hồ, tức Hồ Xá lâm là một
đám rừng lớn tại làng Hồ Xá huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị, gần địa giới tỉnh Quảng
Bình, nơi mà Hồ Quý Ly lập ra để di dân đến trong kế hoạch nam tiến. Vào thời
chúa Nguyễn truông Nhà Hồ là chỗ giặc cướp hung bạo ẩn náu theo địa thế hiểm trở
nhiễu hại dân lành. Năm 1722 Quốc chúa Nguyễn Phước Chu cử Nguyễn Khoa Đăng (người
vừa thành công trong việc kinh lý chia lập các ấp thuộc từ Quảng Ngãi đến Phú Yên,
được thăng từ Diên Tường nam lên Diên Thọ hầu) làm Nội tán kiêm Án sát sứ bình định
vùng này. Ông đã tìm ra sào huyệt bọn cướp và dùng cơ mưu tiêu diệt chúng, đem
lại sự bình yên cho bá tánh.
Phá Tam Giang: Phá là một đầm lớn và dài, nối liền nhiều con sông
chảy ra cửa hẹp, cách biển bởi một đụn cát dài, phá là nửa biển nửa sông, gặp mưa
to gió lớn thì sóng đánh dữ dội rất nguy hiểm. Phá Tam Giang ở huyện Quảng Điền
tỉnh Thừa Thiên, nhận nước của ba con sông Tả Giang, Hữu Giang và Trung Giang, đổ
ra cửa Thuận An, nay đổi tên là Hạc Hải vì đã cạn. Ngày xưa phá Tam Giang khúc
cạn khúc sâu không nhất định chỗ nào nên việc giao thông qua đây rất nguy hiểm.
Tương truyền ngày xưa phá Tam Giang có ba con sóng thần là sóng Ông, sóng Bà và
sóng Con, khi thuyền bè qua phá ba con sóng cuộn lên, nếu thuyền trưởng không đốt
nhang khấn vái sẽ bị nhận chìm. Nội tán Nguyễn Khoa Đăng đã cho đào vét, sửa lòng
phá làm cho việc đi lại được bình thường. Để đánh mạnh vào sự mê tín của dân chúng
ông cho đem súng thần công ra bắn và bảo rằng ba con sóng đã sợ chạy mất.
Công lao của Nguyễn Khoa Đăng
đã được lưu danh vào ca dao: Phá Tam Giang ngày rày đã cạn. Truông nhà Hồ
Nội tán cấm nghiêm. Ôi, những người muôn năm cũ, làm quan không phải tham những
hối lộ để vinh thân phì gia mà chỉ vì dân vì nước.
Cũng là chuyện thương nhau như thế, nhưng hình như phần nào viện cớ, Phú Yên có câu:
Thương em anh cũng muốn qua
Sợ cọp núi Lá sợ ma Bãi Điều
Hai địa điểm này ở hai bên bờ sông Ba, trước đây thuộc huyện Sơn Hòa
tỉnh Phú Yên, nay núi Lá bên hữu ngạn thuộc huyện Sông Hinh cũng trong tỉnh Phú
Yên, Bãi Điều bên tả ngạn thuộc huyện Sơn Hòa. Núi Lá ở hướng đông nam thị trấn
Củng Sơn huyện Sơn Hòa , hướng đông bắc thị trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh, chạy
dọc bờ sông, đỉnh phía nam 453m, đỉnh phía bắc 303m. Nơi này ngày xưa rất nhiều
cọp, như tục ngữ nói: Cọp núi Lá, cá sông Hinh. Bãi Điều là một vùng đất thấp
ven sông, phía đông bắc thị trấn Củng Sơn. Có người nói điều là cây điều hoang
mọc nhiều nơi đây, có người nói điều là màu đỏ, màu máu, do đã hai lần là pháp
trường, một lần do Cần Vương sát tả, một lần do quân Pháp và quân Trần Bá Lộc hành
quyết các chiến sĩ Cần Vương, bởi vậy Bãi Điều nhiều ma. Đêm đêm những hồn ma của
hai phe vẫn hiện lên đánh đá lẫn nhau,
chưa chịu xếp lại hận thù.
Ở Bình Định có câu:
Muốn về Hòa Đại, Hiệp Luông
Sợ khe nước nóng, sợ truông Ba Gò
Hòa Đại và Hiệp Luông là hai địa điểm thuộc huyện Phù Cát tỉnh Bình
Định. Ở đây có suối nước nóng tự nhiên và vùng rừng gọi là Truông Ba Gò (truông:
rừng, như Truông Mây [Bình Định], Truông nhà Hồ [Quảng Trị], Truông Thơm [Phú Yên]
v.v…). Truông này hoang vu rậm rạp, rộng khoảng 500mẫu (mỗi mẫu bằng ½ hecta).
Một câu khác:
Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi
Bánh ít lá gai là bánh ít dùng bột nếp, đường và lá cây gai (lấy sợi)
quết nhuyễn, có màu đen. Nhân bánh dùng đậu xanh hoặc cơm dừa nạo thành sợi nhỏ.
Bánh ít lá gai không riêng của Bình Định mà phổ biến ở Nam Trung Bộ, thường dùng
dâng cúng và đãi khách trong đám giỗ. Đám giỗ không có bánh ít lá gai là thiếu đi
một phần hương vị. Khi khách ra về, chủ nhà gởi theo chút quà, trong đó có bánh
ít lá gai. Cho nên khi ông bà cha mẹ đi ăn giỗ dặn con cháu nhỏ: Ở nhà cho giỏi
rồi ông (bà,cha,mẹ…) đem bánh ít về cho. Nhiều câu ca dao được thay đổi địa
danh hay vài ba tiếng
phù hợp hoàn cảnh từng địa phương,
từng cá nhân, ngôn ngữ dân gian gọi là bẻ.
Câu này ở Tuy Hòa bẻ là:
Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Đồng Cọ sợ dài đường đi
Đồng Cọ nay thuộc xã Hòa Thịnh huyện Tây Hòa tỉnh Phú Yên, là bìa
rìa của châu thổ, gần dãy núi Đèo Cả, trước đây coi là xa xôi cách trở vì mùa mưa
lầy lội rất khó đi lại.
Nói chung chung những trở ngại do thiên nhiên, không chỉ đích danh
chỗ nào thì có những câu:
Thương anh em cũng muốn theo
Sợ truông cát nóng sợ đèo đá dăm
Truông ở đây có nghĩa là lối đi nhỏ hẹp giữa rừng. Đá dăm là loại đá
bị bể thành nhỏ, có cạnh bén, đi chân không dễ bị cắt cứa chảy máu. Chàng trai đưa
giải pháp: Cát móng đưa dép em mang. Đá dăm anh lượm, em còn than nỗi gì!
Sông nước cũng gây trở ngại. Trong thơ mới, thi sĩ Kiều Thệ Thủy
viết: Đò giang sông bến thành ngăn trở. Không trách thời xưa:
Sông sâu sào vắn khó dò
Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa
Bậu là nhân vật đại danh tự ngôi thứ nhì, tiếng để chỉ người con gái,
nhất là đối tượng người con trai đang nhắm đến, cũng nói là em bậu: Bậu đừng đỏng
đảnh đòi lãnh với lương. Vải bô bậu mặc cho thường mà thôi / Con cu bay bổng
qua sông. Hỏi thăm em bậu có chồng hay chưa. Tương tác với bậu có tiếng qua, chỉ
người con trai: Lại gần qua nói bậu nghe. Đừng ra cái kiểu nửa chè nửa xôi / Một
mai trúc ngã lan quỳ. Bậu lo thân bậu lo gì thân qua.
Ở vùng biển thì:
Muốn về Mỹ Á ăn dừa
Sợ con sóng lớn nó đừa lộn ra (vô)
Mỹ Á là một thôn của xã An Phú nay thuộc thành phố Tuy Hòa tỉnh Phú
Yên, cách trung tâm thành phố trên 10km, nơi trên bờ nhiều dừa dưới bến nhiều cá.
Đừa là đưa mạnh, đẩy mạnh, lộn là trở lại vị trí cũ, đừa lộn ra hay lộn vô tùy
theo vị trí người đứng nói. Ở đây tuy nói sợ con sóng lớn, thật ra phải hiểu
theo nghĩa bóng. Dân Mỹ Á làm nghề biển nên có một câu khác, chỉ nói đến sợ mà
thôi: Lấy chồng Phú Cốc sợ beo. Lấy chồng Mỹ Á hồn treo cột buồm.
Để tránh cái sợ sông nước bến bờ, nói thì to tát nhưng nghĩ cho cùng
chỉ là sợ tốn tiền đò, chuyện nhỏ, có người lại muốn một cách như là thay thế tạo
hóa
Muốn cho sông cạn đất liền
Kẻo đi lại sợ
tốn tiền đò ngang
Cái sợ thứ hai là sợ lòng người.
Muốn về Soi Bún ăn dưa
Sợ e Soi Bún đãi đưa nhiều
lời
Soi Bún là một xóm của làng Ngọc Lãng, cồn đất nằm giữa hai dòng sông,
sông Chùa phía bắc và sông Đà Rằng phía nam, nay thuộc xã Bình Ngọc thành phố
Tuy Hòa tỉnh Phú Yên. Có người nói Soi Búng, do đọc sai thành Soi Bún rồi quen,
ở đây không có nghề làm bún, búng là chỗ nước sâu dưới lòng sông, lội qua dễ bị
sụp búng nguy hiểm, sông Chùa đoạn này nước khá sâu. Làng Ngọc Lãng là vành đai
xanh của Tuy Hòa, trồng nhiều loại rau dưa, nay thêm trồng nhiều hoa và cây cảnh
Thiên hạ đãi đưa nhiều lời, nói vậy chớ không đáng sợ lắm. Sợ nhất
là chính lòng mình:
Anh gặp em đây cũng cảm cảnh tình thương
Muốn xe sợi chỉ thắm, sợ vương sợi tơ mành
Chỉ thắm là chỉ đỏ, tơ hồng, tượng trưng cho nhân duyên tiền định,
bền chặt đời đời. Muốn mà sợ, là chưa tự tin và chưa tin bạn.
Người con gái cũng không tránh khỏi tâm trạng ấy, trước ngưỡng cửa
tình yêu và hôn nhân thường sợ cha mẹ chàng.
Và sợ cả chàng nữa.
Gặp anh cũng muốn dan ca
Sợ mẹ bằng biển sợ cha bằng trời
Gặp anh cũng muốn trao lời
Sợ chòm mây bạc giữa trời mau tan
Dan ca là nói đủ thứ chuyện, vòng vo nam bắc, trên trời dưới đất,
không có chủ đề gì hết. Khi yêu nhau chuyện gì cũng nói với nhau được. Bởi vậy
mới sợ mẹ sợ cha, sợ bằng trời bằng biển chứ ít đâu! Lại sợ chàng thực thực hư
hư, dễ dàng thay đổi như chòm mây bạc. Người bình dân nói năng cũng ví von thơ
mộng đâu khác các thi sĩ đại gia. Đọc câu này sao khỏi liên tưởng đến Lý Bạch
trong Đường thi: Phù vân du tử ý. Lạc nhật cố nhân tình. (Ý du tử như mây trôi
nổi. Tình cố nhân như nắng chiều hôm).
Có khi người con gái muốn vượt qua tục lệ, muốn nhanh chóng thành đôi,
nhưng sợ cho thân phận nghèo kém của mình.
Thương anh em muốn theo về
Sợ rằng cha mẹ cười chê em
nghèo
Hoặc
Muốn theo anh về bển cho
liền
Sợ cha mẹ nói con dâu
không tiền, dâu hư
Gặp phải chàng trai nghèo, cũng sợ
Thấy anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo, anh bán em đi
Giống ý một câu người vợ có chồng đánh bạc, hay đem của nhà ra cầm
thế, vợ van xin: Cầm thời cầm áo cầm quần, cầm trâu cầm ruộng, xin đừng cầm em.
Mấy anh đánh bạc khi thua, cần gỡ, thì có thứ gì mà không đem cầm cố. Chàng
trai này có vẻ biết điều hơn: Nghèo thì bán khố bán khăn. Có ai mà bán vợ ăn
bao giờ / Nghèo thì bán cột bán kèo. Có ai mà bán vợ theo bao giờ.
Có người gặp cảnh lỡ làng ngang trái, nót thật
Thấy anh em cũng muốn chào
Sợ rằng chị cả giắt dao trong mình
Chị cả là vợ cả, Miền Nam thường gọi là vợ lớn. Nguy hiểm lắm. Hiện
nay không nghe chuyện các chị cả giắt dao mà
các chị cả dùng dao cạo râu (lưỡi lam) rạch mặt, phải đi bệnh viện gấp gấp.
Sợ quá đi chứ, cái cảnh: Có thương cho lắm cũng chồng người ta.
Nói thật hơn nữa
Chiếu bông mà trải góc đền
Muốn vô làm bé sợ không bền anh ơi!
Trong khi đó cái sợ của anh này có vẻ không thật lắm
Thấy em anh cũng muốn chào
Sợ anh chồng cũ giắt dao trong minh
Thấy em anh cũng muốn chào
Sợ anh chồng cũ đứng bờ rào nó trông
Chị cả, đang có quyền hành thì sợ là đúng. Còn anh chồng cũ, để
nhau rồi (tức là bỏ nhau rồi) sao lại sợ, thấy nó đứng bờ rào nó trông đã sợ,
thật chẳng đáng mặt làm trai! Chưa biết nó có giắt dao hay không đã sợ, thế thì
che chở cho cát đằng gì nổi! Kém!
Cũng có người muốn thụ hưởng mà sợ vì làm biếng, thiếu ý thức cần
lao
Muốn ăn hột nếp Vườn Trầu
Sợ e tát nước giở gàu không lên
Vườn Trầu là cánh đồng thuộc thôn Ninh Tịnh xã Bình Kiến thành phố
Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, có loại nếp rất ngon, thơm và dẻo. Trước đây cánh đồng này
thiếu nước, phải tát bằng gàu sòng và gàu dai, tát cả ngày, tát ban đêm nữa, rất
nặng nhọc. Anh chàng này muốn ăn mà không muốn làm, thiết tưởng nên học theo sư
Đạo Thông, vị tổ thứ 7 của chùa Đá Trắng huyện Tuy An tỉnh Phú Yên thực hiện
theo phương châm của tổ Bách Trượng không trông đợi thập phương cúng dường mà
“nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn).
THƯƠNG VÀ GHÉT
Tục ngữ ca dao nói về thương rất nhiều. Dạy bảo phải thương yêu
nhau, từ người trong gia đình, nội ngoại thân thích đến lân lý và rộng ra hơn là
đồng bào, nhân loại. Trong truyện Lục Vân Tiên cụ Đồ Chiểu phân biệt thương ghét
rất rõ ràng. Nên thương ai, nên ghét ai, thậm chí ghét cay ghét đắng ghét vào tới
tâm. Tục ngữ ca dao thì không có lời khuyên ghét (vậy mà thiên hạ vẫn ghét nhau
loạn xạ tưng bừng). Chỉ có một số câu nêu cả hai vấn đề thương/ghét, như bức ảnh
chụp hai mặt phải và trái của xã hội, phản ảnh tâm lý người đời.
Thương và ghét có một phần tính cách cho và nhận, vay và trả, gieo
và gặt, như thuyết nhân quả.
Thương người người lại thương ta
Ghét người người lại hóa ghét mình.
Có thể nói là ai cũng ý thức rõ điều đó, nhưng ai cũng bị chi phối
bởi phản ứng gần như tự nhiên, khi thương dồn hết cảm tình cho đối tượng, nhìn
thấy điểm nào cũng tốt đẹp, khi ghét thì đổ hết ác ý và nhìn thấy chỗ nào cũng đáng
chê trách.
Thương người như thể thương thân
Ghét người như thể đổ phân cho người
Thương và ghét đem lại ảnh hưởng trực tiếp với những người, những
vật của đối tượng
Khi thương thương hết cả nhà
Khi ghét ghét hết
cả bà cả con
Thương ai thương cả lối đi
Ghét ai ghét cả tông chi họ hàng
Khi thương cái xấu xa cũng nhìn thấy tốt đẹp, khi ghét thì cái tốt
đẹp hóa thành xấu xa
-Khi
thương quả ấu cũng tròn
Khi ghét thì quả bồ hòn cũng vuông
-Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo
Ấu là loại cây mọc dưới bùn, trái gần như hình tam giác, giống đầu
trâu có 2 sừng, vỏ màu đen, bên trong bột trắng, ăn bùi bùi. Trước đây đi qua các
phà Nam Bộ như Mỹ Thuận thấy nhiều người rao bán trái ấu luộc. Cây bồ hòn cao từ 3m đến 5m, trái tròn, vị đắng, có chứa
chất saponin dùng gội đầu và giặt rửa.
Thương và ghét thường thể hiện
qua cử chỉ, hành động, dù nhỏ vẫ dễ dàng nhận thấy.
Khi ghét, không còn trông nhắc nhau, thậm chí gặp nhau không chào
hỏi
-Khi thương nhau ngóng trông làu lạu
Khi ghét nhau mặt cạu làm ngơ
-Hồi thương đụng đâu nhắc đó, hồi ghét bỏ xó không nhìn
-Hồi thương đụng đâu
khen đó, hồi ghét nói bỏ chó không thèm
Đụng ở đây có nghĩa là gặp, đụng đâu là gặp bất cứ việc gì. Nói bỏ
chó không thèm là nói xấu đến cùng cực, người như vậy thì chó cũng không thèm.
Phương ngữ Nam Trung Bộ có khi tiếng đụng dùng để chỉ việc cưới nhau, ăn ở với
nhau, như: Hai cháu đụng nhau đã lâu chưa?
Khi ghét, giao tiếp không còn mặn nồng, không dành cho phần hơn,
phần quý
Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười
Thông thường khi ăn trầu người ta bửa (bổ) ruột trái cau ra 6 miếng,
thương nhau bửa lớn gấp đôi (3 miếng), ghét nhau bửa ra còn tí xíu (10 miếng).
Khi ghét, người ta thành ra ích kỉ, nhỏ nhen
Hồi thương quạt giấy cũng cho
Hồi ghét quạt mo cũng đòi
Quạt phất giấy xòe ra xếp vào dùng tiện lợi, đi đâu thì cầm theo
trên tay, còn có vẻ sang trọng nữa, hồi thương cho nhau dễ dàng. Qụat mo làm bằng
mo cau, mo tre, thô vụng, bất tiện, không tốn tiền mua như quạt giấy, mà hồi ghét
thì đã cho rồi cũng đòi lại cho được.
Ngày trước ở thôn quê nấu cơm nồi đồng, vần lên lửa than, phần cơm
trong hông thường cháy vàng, cạy ra ăn giòn, thơm, khá ngon, nhiều người thích.
Thương nhau cho nhau miếng cháy là biểu lộ tình cảm. Cổ tích có chuyện người học
trò nghèo, hàng ngày giả vờ mượn nồi nhà kia nấu cơm, thật sự là để vét cơm cháy
ăn, thế mà đỗ đến Trạng Nguyên, dân gian gọi là ông Trạng Nồi (Sau năm 1975, giáo
chức công chức sĩ quan Miền Nam ở tù học tập cải tạo, có người làm quen với nhà
bếp để xin cơm cháy ăn thêm, quý lắm, không phải ai cũng xin được). Thế nhưng
khi ghét nhau thì bêu rếu bảo là cạy nồi, vét nồi.
Hồi thương cho nhau cơm cháy, hồi ghét nói nhau cạy nồi
Chuyện vét nồi này có trong vài câu ca dao khác như: Học trò học
trõ học tro. Chẳng lo ba chữ mà lo vét nồi / Học trò cầm viết tay chiêu. Cầm đũa
tay trái vét niêu như chùi.
Chỉ có riêng trường hợp dạy con, hai việc thương/ghét mới có nghĩa
trái ngược. Thời trước người ta thường giấu kín tình cảm với con cái, sợ con dễ
ngươi, lừng mặt, không nghe lời thành hư hỏng, phải nghiêm khắc với con, đánh đòn
để răn dạy, cả cha mẹ và thầy giáo cũng vậy. Cho nên, nghe như nghịch lý
Thương con cho roi cho vọt
Ghét con cho ngọt cho ngào!
XA VÀ GẦN
Xa và gần trên thực địa khác với xa và gần trong tâm tưởng. Trên
thực địa được đánh giá theo đơn vị đo lường, bằng dặm, bằng cây số, hoặc ngày
trước ước tính đi bộ một buổi, mấy ngày, đi ngựa bao lâu, bây giờ là mấy phút mấy
giờ lái xe, mấy giờ bay v.v… Trong tâm tưởng trái lại khác hẳn. Có khi thật gần
trong không gian mà chẳng bao giờ giao thiệp thành ra thật xa, có khi thật xa
trong không gian mà thương mến nhau, hay đến thăm viếng nhau, hoặc là thường
nghĩ đến nhau, thì coi như gần.
Thương nhau xa cũng như gần
Đừng nên tham phú phụ bần khó coi
Tham phú phụ bần là tham nơi giàu sang, phụ kẻ nghèo khổ, cũng không
sao, nhưng mà khó coi. Ở thôn quê hai tiếng khó coi (làm như vậy khó coi, ăn ở
như thế khó coi) là một lời trách móc có phần nặng nề.
Hồi xa cách vách cũng xa
Hồi gần cách huyện cách nha cũng gần
Cách vách là chung vách, liền vách, tiếng nói lớn, tiếng động mạnh
là nghe được. Bây giờ dân thành phố sống vô cảm với nhau, cách vách cũng xa là
thường tình. Thời trước ở thôn quê tình nghĩa lân lý rất đậm đà, cách vách cũng
xa là điều đáng quan ngại về việc giao thiệp, hết tình hết nghĩa. Huyện nha là
chỗ quan lại làm việc, mỗi khi có việc rắc rối mới đến huyện nha, nên vừa xa cách
dân chúng vừa là một trở lực, ai ai cũng e ngại, ít muốn đến. Mặc dù vậy cách
huyện cách nha là gặp nhiều ngăn trở, coi như gần thì cứ là gần.
Có khi ca dao đưa ra địa danh cụ thể, như ở tỉnh Phú Yên
Hồi xa cách vách cũng xa
Hồi gần Gò Duối – Hòa Đa cũng gần
Hai nơi này cùng nằm dọc con đường chính, thời ấy gọi đường quan báo
- đường thiên lý, bây giờ là quốc lộ 1A, cách nhau khoảng 50km. Ban đầu cùng
trong huyện Đồng Xuân, bởi lãnh thổ rộng nên chia ra huyện Đồng Xuân và phủ Tuy
An, rồi huyện Đồng Xuân còn lại lại chia ra huyện Sông Cầu. Gò Duối nay thuộc xã
Xuân Lộc huyện Sông Cầu, trước năm 1945 là một trong hai nơi sản xuất nhiều lụa
trong tỉnh, bán đi khắp nơi (làng kia nổi danh hơn là làng Ngân Sơn tức Phường
Lụa huyện Tuy An). Hòa Đa nay thuộc xã An Mỹ huyện Tuy An, thổ nghi hợp với các
loại đậu hạt, bông vải, rau dưa và là một trong hai làng bánh tráng cũng bán đi
khắp nơi (làng thứ hai là làng Đông Bình huyện Phú Hòa). Thời xưa, Gò Duối – Hòa
Đa đi bộ cả ngày đường.
Đến Quảng Nam nghe
Dù xa chỗ ngõ cũng xa
Dù gần vĩnh Điện – La Qua cũng gần
Vĩnh Điện, La Qua là những địa danh đã đi vào lịch sử, lưu giữ bao
ký ức đẹp trong lòng nhiều người, tại địa phương và từ nơi khác đến đây. Thị trấn
Vĩnh Điện huyện Điện Bàn nằm trong trục tam giác Đà Nẵng - Hội An – Tam Kỳ, là
trung tâm đầu mối giao thương khá phồn thịnh phía bắc tỉnh Quảng Nam. Nơi đây có
dòng sông Vĩnh Điện, con đường thủy từng được vua Minh Mạng đốc thúc đào vét thêm
để khai nối từ sông Thu Bồn ra Cửa Hàn. Làng La Qua thuộc xã Điện Minh huyện Điện
Bàn, ngày xưa trong thành La Qua. Có câu nói vui: Qua qua La Qua, qua hôn qua hít
qua vít qua véo qua chọc qua ghẹo, biểu em đừng la qua.
Theo Đại Nam nhất thống chí,
tỉnh thành Quảng Nam xưa còn gọi là thành La Qua hay La Thành, năm Minh Mạng thứ
14 dời đến xã La Qua huyện Diên Phước, đắp bằng đất, năm Minh Mạng thứ 16 xây gạch.
Thành có 4 cửa: Nam môn (cửa Tiền) có kỳ đài cao, Bắc môn (cửa Hậu) trông ra sông
Vĩnh Điện, Tả môn nhìn về hướng đông, Hữu môn là nơi nhộn nhịp nhất vì dân chúng
phần lớn đều đi qua đây. Khi đường bộ phát triển, con đường thiên lý bắc nam đi
qua Vĩnh Điện cách tỉnh thành La Qua 500m hướng Hữu môn, đã tạo thêm sự sôi động
cho vùng này.
Gò Duối – Hòa Đa (Phú Yên)
cách xa nhau, câu ca dao trên áp dụng cho nhiều người và cho những ai ở Gò Duối
nhìn vào, nói với Hòa Đa, những ai ở Hòa Đa nhìn ra, nói với Gò Duối. Vĩnh Điện và La Qua (Quảng Nam) thì
trái lại, hai nơi ở gần sát nhau, nên câu này chỉ áp dụng cho những ai ở xa Vĩnh
Điện, La Qua, ngỏ ý rằng khi cảm thấy gần, muốn gần và cần gần thì dù ở xa như
tận Vĩnh Điện, La Qua cũng gần.
Nói đến xa và gần cũng nên nhắc đến lời của người bạn trai nói với
người bạn gái xuất giá, chỉ nhắc bạn bổn phận khi mai sau cha yếu mẹ già, nhưng
ngầm tỏ rằng ta đây chính là chỗ gần mà bạn không lựa chọn
Con chim đa đa đậu cành đa đa
Chồng gần không lấy, lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Bát cơm ai đỡ, chén trà ai dưng
Chim đa đa là con gà gô, gà sao, gà cơm cát, sống nơi gò đồi tranh
đế, những buổi trưa cất tiếng gáy “chát cha chát chát cha cha” nghe như xé lòng.
Cành đa đa còn gọi là tha đa, một loại cây dẻo và chắc, thường dùng làm cánh ná
(nỏ), đầu ná thì dùng cây lòng mức: Đầu lòng mức, cánh tha đa.
Và tâm sự cha mẹ khi gả con:
Có con mà gả đi xa
Cũng như heo nái cọp tha về rừng
Có con mà gả chỗ gần
Có bát canh cần nó cũng bưng sang
Có con mà gả đi xa
Một là mất giỗ hai là mất con
Có con mà gả chỗ gần
Nửa đêm nhớ mẹ ở trần chạy qua
VUI VÀ BUỒN
Trong thất tình của con người, vui buồn, thương ghét chiếm phần
quan trọng. Ta có thể giảm bớt giận hờn, ham muốn… nhưng nếu có ít ghét thì cũng
còn nhiều thương và vui buồn luôn luôn tự tại.
Những vui buồn ấy trong lòng ta luôn luôn lan ra ngoại cảnh, đôi
khi mượn cảnh giải sầu, tuy vậy thường thấy
Khi vui non nước cũng vui
Khi buồn sáo cặp kèn đôi cũng buồn
Cụ Tiên Điền viết: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, là vậy. Khi
ta vui, thấy đâu cũng cũng vui, cây cỏ xanh tươi, nước non đẹp đẽ, khi ta buồn
thì dù có đàn sáo tưng bừng cũng cứ buồn.
Có 1000 lý do để vui, 1001 lý do để buồn. Lý do thực tế chiếm tỉ lệ
không nhiều lắm. Như lời than của một cô gái làm dâu. Vui cũng hóa buồn
Làm dâu khổ lắm chị em ơi
Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than
Điều đáng nói là nhiều khi kịch bản này tái diễn, khi cô dâu ấy đã
thành mẹ chồng…
Khi vui, thói thường ta hay ba hoa đủ điều, kể chuyện này, nói
chuyện kia, khi buồn thì ủ rũ, ngồi một đống từ bi
Khi vui thì miệng lép bép
Khi buồn con ruồi đậu bên mép không hay
(Có bản hai tiếng
cuối là: không xua, không đòi)
Người điềm tĩnh hơn có cái vui nhẹ nhàng, không biểu lộ nhiều, không
khoa trương, và cái buồn sâu sắc, muốn quên hết những hệ lụy với cuộc đời
Khi vui ngồi ghế gảy đờn
Khi buồn muốn dứt nghĩa nhơn cho rồi
Bây giờ nói đánh đàn, tiếng đánh e không sát lắm, xưa nói gảy đờn,
khảy đờn, vì dùng móng tay gảy hoặc miếng phím khảy lên dây đờn chứ nào có roi
vọt đánh đập gì đâu!
Khi vui thì muốn sống dai
Khi buồn muốn thác ngày mai cho rồi
Tại sao muốn thác ngày mai mà không muốn thác ngay lập tức. Bởi vì
ta đang buồn, có nghĩa là còn đang suy tính, nghĩ xa nghĩ gần, nghĩ đi nghĩ lại
Muốn thác ngay lập tức là tuyệt vọng rồi, đâu phải là buồn!
Đôi khi khách quan, tự ví mình như giếng nước bên đường. Ở miền núi
có nhiều giếng nước bên đường, loại giếng công cộng hoang sơ, như một vũng nước
cạn, người và dã thú, cả ác thú dùng chung khi đi ngang qua. Lòng giếng như soi
thấu lòng người, hiểu thiên hạ qua cử chỉ hành động
Em như giếng nước bên đường
Người vui rửa mặt người buồn rửa chân
Người vui thường cảm nhận mình đang sảng khoái nên dùng nước rửa mặt
để thêm nhẹ nhàng, thãnh mãnh, và do tôn trọng tha nhân còn nghĩ đến kẻ sau nên
không rửa chân. Người buồn, mang tâm trạng chán chường, chẳng muốn chăm sóc diện
mạo, lại coi thường tất cả nên liền thò chân xuống giếng để rửa. Đơn giản qua cách
miêu tả đã có phân tách tâm lý tế nhị.
Đôi khi, có người tỏ ra quân tử trượng phu, cầu mong
Ngó lên trời chớp mưa nguồn
Bao nhiêu vui về bạn, bao nhiêu buồn về ta
Cảnh trời chớp mưa nguồn, thoáng nghe tưởng là cảnh vui, nhưng khi
chứng kiến mới thấy đó là một cảnh buồn: mây giăng đen xám chân trời đỉnh núi,
từng luồng chớp xé sáng không gian, buồn lắm, mong tất cả nỗi buồn ấy về ta để
tất cả nỗi vui về bạn, tất nhiên không thể nào thực hiện được, vẫn là ý nghĩ tốt
đẹp.
Chuyện buồn như trên là kiểu Xuân Diệu đại gia: Hôm nay trời nhẹ lên
cao, tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn… Trời nhẹ lên cao thì có chết thằng Tây
thằng Mỹ nào đâu, có ảnh hưởng tới hòa bình thế giới đâu, vậy mà buồn, thật không
hiểu được. Đó là loại buồn vu vơ, đừng hỏi tại sao, đó là cái buồn người đời bảo
là của nghệ sĩ, mà người đời có ai không phải là nghệ sĩ đâu. Dân Nam ta tự hào
là một dân tộc thơ, người người làm thơ, nhà nhà làm thơ, ai cũng có quyền có cái
vui nhẹ nhàng, buồn man mác của nghệ sĩ chứ.
Nhất là trong cảnh cảm thấy rất đỗi cô đơn
Ngó lên ngó xuống thời vui
Ngó qua ngó lại ngậm ngùi buồn thương
Ngó lên ngó xuống là ngó trời ngó đất, trời cao đất rộng, vui thật.
Ngó qua ngó lại là ngó cuộc đời, ngó chung quanh mình để chạnh nghĩ về thân phận
mình. Ta lẻ loi trong khối nhân sinh đông đảo, ta lạc lõng giữa thiên hạ ồn ào.
Ta giấu kỹ cái ta mà cái ta vẫn hiển hiện. Thật ngậm ngùi!
Bàn tản mạn về ca dao, A & B, còn nhiều nữa, những ước muốn và
sợ sệt, những vui buồn, thương ghét, xa gần… những phạm trù đối lập trong lòng
ta với cuộc đời này còn nhiều nữa, ca dao chỉ ghi nhận một phần, người đi thu
nhặt chỉ gom góp được một phần càng nhỏ bé, ít ỏi.
Thu nhặt để làm gì, để vui và buồn chăng? Người làm việc này cũng
không hiểu mục đích của mình, vì không có mục đích gì hết. Con tằm nhả tơ là
chuyện trời bảo nó, nó không nhả tơ cho bất cứ loài vật nào, chuyện con người bắt
con tằm phải chết để dùng tơ làm gì là chuyện khác. Ai khiến nó biết nhả tơ? Cũng
tại trời cả!
Tựu trung người làm việc này cảm thấy đây cũng là môt việc giỡn chơi,
trong toàn bộ kiếp sống giỡn chơi của mình. Vâng, cuộc đời riêng vốn là giỡn chơi,
trôi nổi qua những tháng năm tang thương biến đổi, sống cứ y như là làm nháp,
nay phải sửa chỗ này, mai phải sửa chỗ nọ, cho hợp thời cuộc, xem lại giống như
bài tập làm văn bị thầy phê là bố cục lỏng lẻo, phân đoạn rời rạc, ta hôm qua và
ta hôm nay tưởng như hai phần của hai kẻ khác, không có chuyển mạch, không có
liên từ. Vậy chỉ có cái chết là thật chăng?
Các nhà tâm linh siêu hình cho rằng chết chưa phải là hết, còn thiên
đàng, địa ngục, còn luân hồi, kiếp sau, tệ lắm
thì làm con vật chuộc tội, cái mũi con trùng, cái gan con chuột, con ngựa,
con heo, con gà (nhữ vi trùng tị thử can, tí thần vi mã vi đàn vi kê), nhưng bản
thân chưa trải nghiệm, chưa chết thử, chết nháp lần nào (chết hụt thì có, nhưng
hụt là chưa), không có niềm tin nơi cõi vô minh huyền bí, cứ luôn cho rằng cái
chết là thật, là hết, ta không còn biết gì nữa, vui và buồn, thương và ghét, những
tham sân si tục lụy… nên tuy sống là giỡn chơi vẫn luyến tiếc, vẫn rất thương
ta và thương đời, thương giấy mực.
Đành cám cảnh nghĩ rằng:
Cuộc đời, ơi hỡi, thương nhau lắm
Mà sống như là để giỡn chơi… /=