Tuesday, March 15, 2016

212. TRẦN HUIỀN ÂN Nhất nhì tam tứ trong ca dao (Phấn 3)


Ảnh PCH - 2015



Phần 3: NHẤT – NHÌ – BA

Cũng gồm các nội dung: nói về đất nước - con người, phong tục, công việc, thực tế cuộc sống, giao tiếp…

82- Nhất cao là núi Ba Vì
      Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn

Ba Vì: tức núi Tản Viên đã chú thích ở câu 2. Tam Đảo: Dãy núi ở phía bắc Vĩnh Yên và Phúc Yên (Bắc Bộ), cao 1.800m, chạy song song với sông Đáy (LVĐ/VNTĐ quyển hạ phần III tr. 216). Độc Tôn: (?)

83- Hà Nội băm sáu phố phường
      Hàng Mật, Hàng Đường, Hàng Muối trắng xoa
      Thứ nhất là hội Hàng Hoa
      Thứ nhì Hàng Mã, thứ ba Hàng Vàng

Trắng xoa: Nghe như thơ Bút Tre. Hàng Hoa: Hàng Bông, vì phải ép vần với trắng xoa. Một câu khác tuy không sắp xếp thứ bậc nhất nhì nhưng chỉnh hơn và nghe hay hơn:

Hà Nội băm sáu phố phường
Hàng gạo, hàng đường, hàng muối trắng tinh

84- Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp

Xã Cổ Bi nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, trước đây nổi tiếng là có kiểu đất đế vương. Xã Cổ Loa nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội, là kinh đô nước ta thời An Dương vương khoảng nửa sau thế kỉ thứ III trước Công nguyên, hiện còn di tích. Cổ Pháp nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, là quê của Lý Công Uẩn, cũng là nơi có lăng tẩm tám vua Lý ( Theo NXK-KTTN tr. 2587)

85- Thứ nhất là chùa Đức La 
      Thứ nhì chùa Bổ, thứ ba chùa Dền

Ba thắng cảnh ở tỉnh Bắc Giang. Chùa Đức La còn gọi là Vĩnh Nghiêm tự, nay thuộc huyện Yên Dũng, vào thời Trần là trung tâm của Phật giáo Việt Nam. Chùa Bổ Đà xây dựng dưới triều  Lê trung hưng , qua nhiều lần trùng tu, là quần thể kiến trúc đẹp ở huyện Việt Yên. Chùa Dền thuộc tổng Thọ Xương cũ, nay thuộc thị xã Bắc Giang, đầu thế kỉ XX bị tháo dỡ, dời xuống cạnh thành Dền (Theo NXK-KTTN tr.2593).

86- Thứ nhất là đồng Quảng La
       Thứ nhì đồng Biển, thứ ba đồng Sầy

Ba cánh đồng thuộc xã Biển Động, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, có tiếng là rộng và bằng phẳng. (NXK-KTTN tr.2594).

87- Thứ nhất là vực Tam Soa
      Thứ hai vực Phố, thứ ba vực Nầm

Ba vực trên sông La và sông Ngàn Phố tỉnh Hã Tĩnh có nhiều cá to, ngon. (NXK-KTTN tr.2596)

88- Nhất canh trì
      Nhì canh viên
      Tam canh điền

Trì: ao, viên: vườn, điền: ruộng. Đào ao nuôi cá, trồng cây lập vườn và canh tác trên đồng ruộng là ba việc làm của nhà quê. Đây nói về sự gia công, tỉ lệ nghịch với diện tích, ao nhỏ hơn vườn, vườn hẹp hơn ruộng, nhưng việc chăm sóc thường xuyên tỉ mỉ thì theo thứ tự trên.

89- Nhất duyên, nhì phận, tam phong thổ

Nói về việc xuất giá của người phụ nữ. Đồng thời là việc cư trú của nói chung nhiều người. Một là phải có duyên với nơi ấy để gặp gỡ, hai là phải có phận để gắn bó và ba phải là nơi hợp phong thổ để có thể ở lại lâu dài và có điều kiện phát triển.

90- Nhất mẹ, nhì cha, thứ ba bà ngọai

Tình yêu thương tự nhiên của một con người. Trước hết là yêu thương mẹ cha, tiếp theo là bà ngoại vì trong hàng ông bà thì bà ngoại gần gũi với cháu nhất, cưng chiều cháu nhất.

91- Thứ nhất là tu tại gia
      Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa

Tu tại gia, không nhất thiết phải làm cư sĩ, mà là hiếu thảo với ông bà cha mẹ, thân thiết với anh em bà con họ hàng, yêu thương con cháu, không làm điều gì hổ danh tổ tiên, việc tuy đơn giản mà khó. Việc buôn bán, cách giao tế nơi chợ búa phải đúng đắn, không gian lận, không xô bồ ồn ào, biết nhường nhịn nhau, đó là tu chợ, cũng là việc khó. Còn như tu ở chùa, mọi việc đã ổn định, sẵn sàng, lo chuyên chú kinh kệ, đời sống không bị quấy rầy, xét ra dễ dàng hơn tu nhà và tu chợ.

92- Nhất thì bộ Lại, bộ Binh
      Nhì thì bộ Hộ, bộ Hình cũng xong
      Thứ ba thì được bộ Công
       Nhược bằng bộ Lễ, lạy ông xin về

Sáu bộ trong nội các của triều đình ngày xưa. Bộ Lại: nội vụ, bộ Binh: quốc phòng, bộ Hộ: tài chánh, bộ Hình: tư pháp, bộ Công: công chánh, bộ Lễ: ngoại giao, giáo dục. Câu này hàm ý việc kiếm chác quyền lợi qua chức vụ đảm trách ở triều đình. Như bây giờ khi được nhận vào làm việc người ta hay hỏi: Làm chỗ đó “có ăn” không? Cho bộ Lễ thì lạy ông xin về, chứng tỏ ngày xưa việc ngoại giao và giáo dục không kiếm chác được gì. Đi sứ nước ngoài đâu có mua hàng ngoại mang về, cũng không đổi tiền đô, trong khi đó chỉ đạo và quản lý việc dạy học không nghiêm, sẽ bị trị tội.

93- Thứ nhất gần mẹ gần cha
      Thứ nhì gần giếng thứ ba gần đình

Gần mẹ gần cha để được nhờ cậy, gần giếng đỡ công đi gánh nước xa. Còn gần đình, tiện lợi hay không tiện lợi e khó rõ ràng!

94- Thứ nhất thì đỗ Thám hoa
     Thứ nhì vợ đẹp, thứ  ba ỉa đồng

Thám hoa:  Đậu thứ ba trong đệ nhất giáp của kỳ thi đình: 1-Trạng nguyên, 2-Bảng nhãn, 3-Thám hoa. Thám hoa là đệ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh.

Câu này có ý giống như phần phụ câu 80.

95- Thứ nhất thì đỗ thủ khoa
      Thứ nhì vợ đẹp, thứ ba ỉa đồng

Thủ khoa: đậu đầu khoa thi. Các cụ Buì Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Huân được gọi là Thủ khoa Nghĩa, Thủ khoa Huân. Vợ đẹp ai cũng thích, còn điều thứ ba: Sao các cụ khoái ỉa đồng thế?

96- Thứ nhất Thái Đức gan gà
      Thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần

Gan gà: màu men giống như màu gan gà nấu chín. Thái Đức, Lưu Bội, Mạnh Thần: tên ba loại bình chén xưa có tiếng, dùng pha trà, được ưa chuộng vì giữ được hương vị, độ ấm.

Nhiều người không quen, khi uống trà đậm đi tiểu suốt đêm, bảo đùa là uống trà “Thái Đức” (nói lái = thức đái).

97- Nhất thời đom đóm vô nhà
      Nhì thời chuột túc, thứ ba bông đèn

Ba điều người ta cho là điềm lành báo trước sự tốt đẹp. Đom đóm từ ngoài sân ngoài vườn bay vô nhà, chuột túc và tim đèn cháy nở ra giống như nụ hoa.

Khi đom đóm vào nhà người ta không cho trẻ con bắt. Bảo rằng bắt đom đóm sẽ đánh vỡ (làm bể) chén dĩa. Thật khó kiểm chứng đúng sai, vì trẻ con không bắt đom đóm cũng thường đánh vỡ chén dĩa.

98- Thứ nhất thì quản voi già
      Thứ nhì trầu miếng, thứ ba sãi đò

Voi già đã được huấn luyện thành thục, người nài dễ điều khiển, trầu miếng đã được têm sẵn, lúc cần ăn (nhai trầu) có ngay. Đó là hai điều thoải mái. Còn sãi đò? Có người nói “sải đò”, tức là khi đò đi thuận dòng, ông lái chống những sải dài, thật thong thả nhàn nhã. Phải vậy chăng?

99- Nhất thời vợ dại trong nhà
      Nhì thời nhà dột, thứ ba nợ đòi

Ba điều khổ, đáng buồn. Tục ngữ có những câu như:
Chồng cái đó vợ cái toi - Của chồng công vợ …

nhưng vợ dại tức là không biết làm ăn, không biết chăm lo gia đình con cái, không biết bảo quản tài sản, thật là điều bất hạnh lớn cho người chồng. Nhà dột, chỗ nào cũng nước, chỗ nào cũng ướt, hứng chỗ này dột chỗ kia, khổ lắm,. Và nợ đòi, như đã nói ở câu trên: Nhất tội nhì nợ.

Câu này được dùng mở đầu một bài vè, tiếp theo là:

Suy đi tính lại mà coi
Nhà dột không sợ, nợ đòi không ghê
Chỉ lo một nỗi hiền thê
Khờ khờ dại dại trăm bề khổ thay
(tiếp theo kể những chuyện dại dột của vợ)

100- Thứ nhất vợ dại trong nhà
        Thứ hai nhà dột, thứ ba rựa cùn.

Ai đã làm nhà quê, đi rừng, đi rẫy thì biết nỗi khổ khi dùng rựa cùn. Chặt cây không được, bứt dây không xong, chỉ muốn quăng đi mà thôi!

101- Thứ nhất vợ dại trong nhà
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba dao cùn

Cả ba câu đều cho rằng vợ dại là việc khổ nhất của người đàn ông, vì người vợ quán xuyến hết mọi việc trong nhà để đàn ông lo việc đồng áng hoặc công vụ. Bởi vậy mới gọi vợ là nội tướng. Cũng nghe đã  có những câu đưa ra giải đáp:

-Trâu chậm thời anh bán đi
Dao cùn đánh lại, vợ thì làm sao ?
-Vợ dại thời đẻ con khôn
Trâu chậm chắc bước, dao cùn dễ băm
-Vợ dại thời đẻ con khôn
Trâu chậm lắm thịt, dao cùn chịu băm

102- Thứ nhất thì mồ côi cha
      Thứ hai gánh vã, thứ ba buôn thuyền

Ba nỗi vất vả của đời người. Về việc mồ côi cha, có câu khác như:

       Còn cha gót đỏ như son
       Đến khi cha chết gót con đen sì

Gánh vã là lao động thể xác cực nhọc, buôn thuyền phải tính toán lao tâm, ngày đêm lênh đênh cùng sông nước, cùng được đưa kế tiếp vào nỗi khổ sau chuyện mồ côi cha.  

103- Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò

Ba hạng phá phách nhất, đáng sợ nhất ngày xưa. Học trò đây là những người lớn, chưa thi cử đỗ đạt, chứ không phải đám nhóc con thò lò mũi xanh. Bây giờ người ta cũng dùng để chỉ đám học trò tiểu học, tức là lũ nhóc con, tuy không còn thò lò mũi xanh.

Trước năm 1975 ở Miền Nam học sinh tư thục hoang đàng hơn học sinh công lập, câu này thành ra: Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò tư thục.

Rồi sinh viên trường nào quậy nhất thì gắn tên trường vào, như: Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò xây dựng (hoặc sư phạm, kiến trúc v.v…).

104- Nhất lý, nhì lì, thứ ba liều mạng

Một cách “khôn” trong việc ứng xử. Một là đúng lý, sống và làm việc theo pháp luật, có việc gì nhờ cơ quan công quyền quyết định theo pháp luật. Không được thì chuyển sang bước hai là lì, có việc gì cần cứ đeo đuổi mãi, lúc nào được mới thôi, ai mắc nợ ta ta đòi cho kỳ được, ta mắc nợ ai cứ ì ra đó khoan trả, có khi họ chịu thua, bỏ qua. Thứ ba là liều mạng, ta hay nói liều mạng trành, thí mạng cùi, đem cái mạng không ra sao của ta ra đối chọi với cái mạng của người khác họ cho là quý báu, rốt cuộc họ phải nhân nhượng, phần thắng về ta.

105- Thứ nhất thì tội hàng hoa
      Thứ nhì hang mã, thứ ba hàng vàng

Đây là những món hàng kể vào hạng xa xỉ, tạo cho con ngừa tánh ưa se sua, chưng diện, có thể đưa đến điều không hay.

Phần 4: NHẤT – NHÌ – TAM - TỨ và…

106- Nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ cổ

Bảng sắp hạng thứ bậc sang hèn trong xã hội xưa. Nhất sĩ: hạng trí thức, nhì nông: người làm nghề nông, tam công: người làm thợ, tứ cổ (thương): người buôn bán. Nhưng cũng có câu nói lại đã nêu ở các phần trước, đặt cao giá trị một nghề tinh xảo:

-Nhất nghệ tinh nhất thân vinh
Hoặc thứ tự bị đảo ngược khi hoàn cảnh thay đổi:
-Nhất sĩ nhì nông hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ

107- Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống

Bốn điều quan trọng trong nghề nông: một là phải đủ nước tưới để hạt nẩy mầm, sống và tăng trưởng, hai là phải đủ phân bón để cây trái sum sê, ba là phải cần cù siêng năng chăm bón, và sau hết phải chọn giống tốt mới được mùa.

108- Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc

Cách xếp hạng kỳ nam theo tính chất, màu sắc. Nhất: bạch kỳ nam, trắng mềm, nhiều chất dầu, nhì: thanh kỳ nam, màu xanh, đúng dầu thì mềm, chưa đúng dầu thì cứng, ba: huỳnh kỳ nam: màu vàng, cứng, để lâu khô dầu trở nên nhẹ, bốn: hắc kỳ nam: màu đen, cứng luôn luôn như trầm kiến (LVĐ/VNTĐ quyển hạ, phần II, tr. 266).

Lê Quý Đôn viết: “Kỳ lam hương xuất tự đầu núi các xã thuộc hai phủ Bình Khang và Diên Khánh xứ Quảng Nam là thứ tốt nhất, xuất tự Phú Yên và Qui Nhơn là thứ hai. Hương ấy là do ở một cây gió kết thành. Gió có 3 loại: gió lưỡi trâu thì thành khổ trầm, gió niệt thì thành trầm hương, gió bầu thì thành kỳ lam hương. Người ta thấy cây già lá vàng mà nhỏ, thân cây nhiều u bướu, biết ngay là có hương, chặt mổ để lấy. Sắc sáp trắng là tốt nhất, sắc xanh đầu vịt là thứ hai, sắc sáp xanh là kém nữa, sắc sáp vàng lại kém nữa, sắc như vằn hổ là kém nhất, lấy chất mềm như phấn đông có thể cắt thành miếng là hạng tốt nhất, bền rắn là hạng xấu. Tục ngữ nói: Nhất bạch, nhì thanh, tam hoàng, tứ hắc…” (Phủ biên tạp lục, quyển 6: Vật sản, phong tục - Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân, Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch, NXB Khoa Học, HN 1964, tr.331-332)

109- Nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng

Nói về sự lanh lẹ của các loài vật trên thế gian, phân loại thượng cầm hạ thú: nhất là loài chim, nhì là loài cá, thứ ba là loài rắn, thứ tư là loài voi. Tượng là con vật lớn nhất coi như tượng trưng cho hạ thú. Thật ra tính chung thì loài có vú chạy bằng bốn chân vẫn là chậm hơn chim bay, cá lội, rắn bò.

110- Nhất Liệu, nhì Hanh, tam Hoành, tứ Hiến

Thường gọi là Quảng Nam tứ hùng. Bốn vị học giỏi nổi tiếng ở Quảng Nam thời kỳ chữ Hán thay nhau đỗ thủ khoa ở các khoa thi hương: Phạm Liệu, Huỳnh Hanh, Võ Hoành, Nguyễn Đình Hiến.

Phạm Liệu, quê làng Trường Giang huyện Điện Bàn, đậu giải nguyên (thủ khoa Cử nhân) năm 1894 lúc 22 tuổi, Tiến sĩ năm 1898, một trong “ngũ phụng tề phi” của Quảng Nam (năm ấy Quảng Nam có 5 vị đậu đại khoa, 3 Tiến sĩ: Phạm Liệu, Phan Tuấn, Phan Quang, 2 Phó bảng: Ngô Chuân, Dương Hiển Tiến, được vua Thành Thái ban cho 4 chữ này thêu trên một tấm biển với hình 5 chim phụng cùng bay), làm quan đến Thượng thư bộ Binh, được phong tước Trường Giang nam. Một trong “năm cụ hồi hưu” năm 1933 (cùng lúc với các Thượng thư Nguyễn Hữu Bài - bộ Lại, Võ Liêm - bộ Lễ, Tôn Thất Đàn - bộ Hình, Vương Tứ Đại - bộ Công).

Huỳnh Hanh tức Huỳnh Thúc Kháng, hiệu Mính Viên, quê làng Thạnh Bình huyện Tiên Phước, đậu giải nguyên năm 1900 lúc 25 tuổi, hội nguyên tiến sĩ năm 1904. Hoạt động trong phong trào Đông du, chống thuế bị đày Côn Đảo năm 1908, năm 1921 được trả tự do, năm 1926 đắc cử Trung Kỳ dân biểu và được bầu làm Viện trưởng, sau đó từ chức để phản đối Khâm sứ Pháp Jabouille, năm 1227 chủ trương báo Tiếng Dân tại Huế, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này (báo bị đình bản năm 1943). Năm 1946 làm Bộ trưởng bộ Nội vụ, Chủ tịch hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt), quyền Chủ tịch chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa khi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn sang Pháp điều đình. Mất ngày 24/4/1947 tại làng Hành Phong huyện Nghĩa Hành tỉnh Quảng Ngãi. An táng tại núi Thiên Ấn. Để lại nhiều tác phẩm có giá trị chữ Hán, chữ nôm và quốc ngữ.

Võ Hoành, quê làng Long Phước huyện Duy Xuyên, đậu giải nguyên năm 1903 lúc 22 tuổi, đậu Phó bảng năm 1910, làm quan đến Tri huyện, chưa rõ sau thăng có chức gì.

Nguyễn Đình Hiến, quê làng Trung Lộc Đông huyện Quế Sơn, á khoa Cử nhân năm 1900 lúc 29 tuổi, đậu Phó bảng năm 1910, làm quan đến Thị lang bộ Lại, năm 1919 làm chủ khảo khoa thi hội cuối cùng. Là thầy dạy địa lý cho vua Khải Định, cũng là người chọn nơi xây lăng Khải Định.

111- Nhất Đạc, nhì Ke, tam Ma, tứ Bích

Bốn Công sứ bạo ngược nhất ở Bắc Kỳ thời Pháp thuộc, gọi là tứ hung: nhất Đạc (Darles), nhì Ke (Eckert), tam Ma (Delamarre), tứ Bích (Bride). (Theo LVĐ/VNTĐ quyển ha, phần II, tr. 266).

112- Nhất Sĩ, nhì Khinh, tam Vinh, tứ Trác

Câu này trong phạm vi tỉnh Phú Yên, thời kháng chiến chống Pháp. Khi các chức vụ đầu ngành chưa phải là đảng viên đảng Cộng sản, có 4 vị trí thức là đối tượng được chú ý để tuyên truyền kết nạp: một là ông Trần Sĩ, Hiệu trưởng trường trung học Lương Văn Chánh, hai là ông Huỳnh Khinh, Trưởng ty Bưu điện, ba là ông Trương Đình Vinh, Trưởng ty Thuế vụ, bốn là bác sĩ Phạm Như Trác, Trưởng ty Y tế. Kết quả bốn vị ấy đều vào đảng, nhưng chỉ có bác sĩ Trác đi tập kết ra Miền Bắc. Ở lại Miền Nam, ông Trần Sĩ tiếp tục dạy trường tư, ông Huỳnh Khinh hồi ngạch bưu điện (có làm thơ Đường luật với bút hiệu Hồng Khanh), không rõ ông Trương Đình Vinh thế nào.

113- Nhất Thắng, nhì Thanh, tam Chinh, tứ Trưởng

Câu này chỉ phổ biến ở Miền Nam trước năm 1975. Khi ấy nạn tham nhũng hoành hành, trong quân đội nhiều tướng được dân gian tặng cho các danh hiệu, loại hỗn danh, không mấy đẹp dẽ, riêng có 4 tướng được coi là “tướng sạch” (không nghe dư luận kết tội tham nhũng) đó là: 1. Nguyễn Đức Thắng – 2. Nguyễn Viết Thanh – 3 Phan Trọng Chinh  – 4. Ngô Quang Trưởng.

114- Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ rỗ

Một câu loại coi tướng, căn cứ vào dị tật của người ấy: mắt lé, thân lùn, răng hô, mặt rỗ, cho là người gian xảo, không đứng đắn. Hễ những người có dị tật như trên làm điều gì không hay, người ta nhắc câu này, coi như hành động của họ đã được báo trước qua hình dáng rồi.

115- Nhất bạch, nhì khoang, tam hoàng, tứ đốm (vện)

Một số người ăn thịt chó xếp hạng thịt ngon dở theo màu lông con vật: một là chó trắng, hai là chó khoang, ba là chó vàng, bốn là chó đốm (hoặc vện). Có thể thuận miệng nói cho vui, như thêm câu dưới đây.

116- Nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm (vện)
       
Lại chuyện ăn thịt chó.

Một là thịt chó mực, hai là thịt chó vàng, ba là thịt chó khoang, bốn là thịt chó đốm (hoặc chó vện).

Thử hỏi vị thứ trong câu nào đúng hơn, bạch là nhất hay mực là nhất?

117- Thứ nhất bà chúa Thanh Hoa
      Thứ nhì bà Bối, thứ ba Thạch Sùng
      Thứ tư Hà Nội Cống Sùng
      Thứ năm cô Đỏ giàu vùng Đông An .

Thạch Sùng: Tên một người giàu nổi tiếng đời Tấn bên Tring Quốc.  Ông cùng với Vương Khải, Dương Tú kết bạn. Thạch Sùng sống rất xa hoa. Về sau, do Tôn Tú gièm pha, Sùng bị Triệu Vương Luân giết giữa chợ. Tương truyền sau khi chết Sùng hóa kiếp thành con thằn lằn (con mối) vì tiếc của nên tắc lưỡi mãi. Vì vậy con thằn lằn (mối) cũng gọi là thạch sùng. (Theo NXK+PĐN/KTCD tr. 159). Ở Miền Nam, trong dân gian có chuyện Thạch Sùng thi giàu, ông thua đối thủ vì không có cái mẻ kho (trã bể kho cá) nên bị chiếm mất hết gia tài, liền tự tử, hóa thành con thằn lằn. Phê phán những kẻ khoe giàu, người ta hay nói: “Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho. Như vậy đâu đã giàu mà lên mặt”. Câu này mới nghe sẽ không hiểu nhất nhì về điểm gì. Nhưng nhờ tên tuổi Thạch Sùng và với dòng 4, ta biết là nhất nhì về giàu có. 

118- Thứ nhất là gỗ vàng tâm
      Thứ hai gỗ nghiến, thứ năm bạch đàn

Gỗ vàng tâm: loại gỗ có lõi màu vàng. Gỗ nghiến: loại gỗ cứng, thường dùng làm thớt. Bạch đàn: Loại gỗ màu trắng, khí nóng, vị cay, mùi thơm, không độc, dùng chế thuốc và lấy gỗ.

119- Nhất con, nhì cháu, thứ sáu người dưng

Hai câu này biệt lệ. Không phải nhẩt/nhì/ba mà nhất/nhì xong xuống thứ năm/sáu. Lẽ thường ở đời ai cũng thương con cháu trước, sau đó mới dành tình cảm cho bạn bè thân thiết rồi người quen biết không có quan hệ huyết thống tức là người dưng. Người dưng không thể sắp hàng liền theo con cháu nên cho vào bậc thứ sáu. Một phần do vần của câu “cháu/sáu”. Xét về mặt kỹ thuật cũng hay vì từ nhì đến sáu cách ba đơn vị, đã đủ coi là xa.

120- Thứ nhất đếm cát
      Thứ hai tát bể
      Thứ ba kể sao
      Thứ tư đào sông
      Thứ năm trồng cây
      Thứ sáu xây núi

Những việc khó khăn trên đời, ba việc đầu hoàn toàn mang tính chất ảo,  ba việc sau có một phần thật nhưng so với sức người ngày xưa cũng là ảo, như là đào sông, trồng cây (có nghĩa là trồng cả khu rừng)  đòi hỏi một tập hợp đông đảo và có người thiết kế chỉ huy tài ba như Thoại Ngọc hầu mới làm được.

121- Nhất ông đếm cát
         Nhì ông tát bể
         Ba ông kể sao
         Bốn ông đào sông
         Năm ông trồng cây
         Sáu ông xây rú
         Bảy ông trụ trời

 Những người đáng nể nếu làm được những việc khó nêu ở câu 120, mang tính chất nói  đùa vui với ngoa ngữ. Vì vậy thứ  tự nhất nhì không chính xác lắm, chẳng hạn như ông ttrụ trời đứng thứ bảy, dưới ông trồng cây đứng thứ năm.
  

NHÌN LẠI

Điểm qua việc đánh giá các sự việc và sắp xếp thứ bậc nhất nhì từ ca dao, thì thấy những nhận xét trong các câu ấy:

-Rất đa dạng, bao trùm lên mọi mặt từ phong cảnh đất nước quê hương đến đời sống con người, phong tục tập quán, cách ứng xử, chuyện ăn uống, ngoài ra còn mang tính thời sự, khen và chê một số việc, một số người.

-Có cái nhìn từ bao quát chiếu trên bình diện rộng, phản ảnh thực tại cả nước, cả xã hội Việt Nam nhất là nông thôn, đến giới hạn trong phạm vi địa phương, tập tục ấy, nhân vật ấy chỉ được biết trong một vùng đất, một tỉnh, một huyện…hoặc chỉ trong khoảng thời gian nào đó, về sau ít người nhớ lại.

-Phần lớn những đánh giá này là đúng trên căn bản, có tính cách khoa học, vì đây là kinh nghiệm được đúc kết và sàng lọc qua nhiều thế hệ mới đủ độ bền để truyền khẩu tồn tại. Tuy vậy cũng có những đánh giá dựa theo cảm tính bộc phát nhất thời, chỉ đúng trong một chừng mực, nhưng vẫn được ghi nhớ để khi gặp trường hợp tương tự người ta đưa ra dẫn chứng. Có những nhận xét đặt dưới lối nói vui, biểu hiệu sự dí dỏm, trào lộng, song không thiếu chính xác.

-Điều nổi bật hơn hết là phong cách dân gian, bao hàm tính nhân bản của xã hội đồng quê. Sự khâm phục, kính nể, khen ngợi như biểu lộ qua nét mặt rạng rỡ làm ai nấy cũng đều vui vẻ. Sự phê phán, chê trách ẩn hiện qua nụ cười hiền hậu làm giảm bớt không khí chỉ trích nặng nề căng thẳng để mọi người gần gũi, không thù oán ghét bỏ nhau.

TRẦN HUIỀN ÂN