Sunday, March 27, 2016

216. TRẦN HUIỀN ÂN Truyện ngắn: TIẾNG GÀ CƠM CÁT


 Núi Chóp Chài, Tuy Hòa  (Nguồn: chudus.com)



Nắng vàng lóa mắt. Con đường cát trắng hoa lên ánh vàng. Trảng tranh, trảng đế hoa lên ánh vàng. Nhìn vào không trung thấy có những giọt nắng  tựa như giọt nước  kết lại rồi vỡ ra, khi thì chạy tán loạn, khi thì chạy thành hình chữ chi, đường dzich-dzăc, chạy theo kiểu các động tác trong phim hoạt họa.
Rừng núi oi bức, nặng nề. Những tiếng chim rừng vang lên khô rát, khắc khoải:
Chát cha chát, chát cha cha…
Chát cha chát, chát cha cha…
               Tiếng gáy của những con đa đa.
Bà Huyện Thanh Quan tặng cho chúng cái tên theo lối tá âm để đối thật chỉnh, từ ý đến lời :
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Một cô thần nhà Lê viết bằng cái tên bác học hơn, cũng xa lạ hơn: “giá cô”.
Giá cô khiếu gia gia.
Đỗ quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh…
Dù đã nghe, đã đọc nhiều tên của giống chim này, tôi vẫn thích gọi chúng bằng cái tên nôm na nhất, giản dị nhất: “gà cơm cát”.
Trong câu thơ Thanh Quan, hai tiếng đắc ý là  hai tiếng “mỏi miệng”. Mỗi lần qua trảng tranh, trảng đế, dưới ánh nắng đậm hồng ban sáng hay trong ngọn gió nồm mát buổi chiều, nhất là vào những giấc trưa lặng gió, cây cối im lìm, nóng bỏng, nghe tiếng gà cơm cát gáy, tôi vẫn có cảm tưởng đó là tiếng kêu đầy giận hờn, oán trách, trong miệng con chim còn ngậm đầy những cát,  giọng lạc, cổ khan, rướm máu:
Xúc cơm cát trả cho cha,,,
Xúc cơm cát trả cho cha

*



Tôi đang trên đường về lại làng quê Vân Hòa. Ở đây có chợ Đồn là chợ duy nhất của tổng. Ngày phiên thu hút nhiều người mua, người bán từ Tuy An, Tuy Hòa lên, từ các chợ ven biển: chợ Đèo, chợ Giã, chợ Yến, chợ Thứ, chợ Bàu Súng, chợ Dinh… Những chàng trai khắp  tổng và các tổng lân cận: tổng Sơn Bình, tổng An Sơn, An Hải cùng về tìm vợ chợ đông.
Vân Hòa là điểm gặp của các con đường từ Tuy Hòa, Tuy An, đi qua để lên Củng Sơn, lên Trà Kê . Đây là chặng dừng chân cho cả người và ngựa nghỉ ngơi. Lúc tôi đã biết, nhà tôi còn là trạm dịch của nhiều toán như vậy. Cụ giáo Trương về Huế vô, từ Tuy Hòa lên Trung Hòa, ông Cử Trần từ An Thổ lên Phú Thuận, ông Học Đào từ Phú Lâm lên Xuân Sơn… đều nghỉ tại nhà tôi. Nghe tiếng nhạc ngựa rộn ràng từ chòi mòng đưa lại, anh em tôi nhìn ra, chẳng mấy chốc đã thấy chiếc nón quai điều chóp bạc của khách dừng trước cổng rào chìa vôi lấp lánh ánh nắng.  Mẹ tôi vội vã làm bữa cơm trưa với món thịt heo nấu nước mắm, món xào bắp  sú, cái bắp sú thường xuyên treo lủng lẳng phía trên cũi thức ăn. Vị khách nào cũng đòi thêm đĩa mắm thơm. Bữa cơm chiều phải là món đặc sản.  Anh em tôi lo vặt lông mấy con chim gầm ghì, chim xanh. Sau này tôi được hiểu: Những năm trước đó, các người này, lúc ấy chưa thành kẻ có vai vế ở các làng bên, khi đi qua Vân Hòa chỉ có một mình hoặc với vài ba bạn trai. Họ lập nên nhà cửa, ruộng vườn rồi, một chuyến đi nào đó, có một người con gái Vân Hòa hứa sẽ theo làm nội tướng. Những chuyến đi của dượng Ba từ Định Trung lên Hòa Xuân cũng như thế.
Lúc gặp mẹ tôi, cha tôi là ông thầy dạy chữ nho. Ở Lục tỉnh về lại Vân Hòa, cha tôi là người đi truyền bá quốc ngữ. Cha tôi cất một ngôi trường và mời thầy về dạy miễn phí cho lũ trẻ trong làng. Về mặt danh nghĩa, ngôi trường là của cha tôi, nhưng về mặt thực tế, các chi phí cho trường, từ lương thầy giáo, tiền giấy bút sách vở cho thầy đến phần thưởng cho học trò đều do mẹ tôi trích từ lợi tức trong gánh hàng xén của người. Ở trường, thầy cộng điểm và công bố vị thứ hàng tuần chứ không đợi đến cuối tháng. Mỗi chiều thứ bảy, học sinh khá được phát thưởng bằng giấy manh, ngòi bút lá tre, mực viên. Nếu dùng từ ngữ của những năm 70 mà nói thì đây là một nghĩa thục. Cả anh em tôi đều được vỡ lòng, tập nét chữ đầu tiên từ ngôi nghĩa thục nhỏ bé của mẹ tôi.
Đã biết đọc, biết viết, anh em tôi rất thích thú khi đón nhận những lá thư từ các nơi gởi đến cho cha tôi. Con tem Đông Dương hầu hết in hình người Pháp. Thư ở Nha Trang gởi cho cha tôi bao giờ cũng đề Mr. Trần Huyền Đoan dit Năm Cúp, vì một thời cha tôi làm thợ hớt tóc nơi bây giờ là hiệu Sanh Bá Hạp trên đường Độc Lập. Cái chữ dit này đã khiến tôi lúc ấy rất buồn phiền.
Lớp tuổi chúng tôi  ở Vân Hòa, đã được cha mẹ đặt cho những tên đẹp theo chữ nho. Có những Đinh Nguyên Tư, Đặng Hạo Nhiên, Thái thị Kiều Trang, Nguyễn thị Minh Vân … Bên cạnh đó, với các bà, các mẹ, chúng tôi còn có những tên nôm na xấu xí nữa. Anh em tôi là thằng Mọi Anh, Mọi Em. Và ngoài tên chính, tên tục, cha tôi còn đặt cho một tiểu tự. Sáng mồng một Tết dậy sớm, rửa mặt chải tóc, mặc quần áo mới, viết dòng khai bút trên giấy hồng đơn, phía dưới ghi tên kèm tiểu tự, dán lên cột.

Tôi đã viết: Trần Sĩ Huệ dit Huyền Ân

Ông cậu bảo như thế là không đúng. Chữ dit không dùng cho tiểu tự mà để giải thích tục danh. Phải viết Trần Sĩ Huệ dit Mọi Em. Cậu lấy các bì thư người ta viết cho cha tôi làm dẫn chứng. Người ta viết: Trần Huyền Đoan dit Năm Cúp, chứ không phải Trần Huyền Đoan dit Chương Phủ. Tôi không dám cãi lạ, chỉ cho là cậu có lòng ác muốn bêu xấu tôi. Tôi ghét cái tên Mọi Em. Và cảm thấy cách đặt tên theo chữ nghĩa thật sâu sắc. Do câu của Công Tây Hoa trả lời thầy Khổng “Tông miếu chi sự, như hội đồng, đoan, chương phủ nguyện vi tiểu tướng” (trong cuộc tế tự ở tông miếu, trong cuộc hội chư hầu, mặc áo huyền đoan đội mũ chương phủ nguyện làm tiểu tướng) cha tôi có tên tự Chương Phủ, do câu “Trí huệ chi sĩ thị huyền ân dã” (trí huệ của kẻ sĩ là do ơn mầu nhiệm vậy) tôi có tên tự Huyền Ân.
Khi mẹ tôi đã mất, khi lớn lên đọc một nhà văn Tây phương: “Mất mẹ, không phải chỉ mất một người mẹ, mà cả tuổi thơ ấu của ta cũng mất đi một nửa. Vì cái thời ta là một đưa con bé bỏng, vừa là của ta vừa là của mẹ ta. Chỉ có mẹ ta mới biết được như ta, những câu chuyện xa xăm, không có nghĩa lý mà vô cùng thân thiết …”,  tuy vẫn trân trọng chữ nghĩa, tôi trở lại yêu cái tên Mọi Em của mình. Lúc này tôi thấm thía rằng những tên gọi là  “tên tục” ấy không hàm ý xấu xa mà ở đó là cả tình thương của người mẹ. Đứa con của mình, cho dẫu xấu xí đến mấy đi nữa người mẹ vẫn thương bằng cái tình thương lớn lao nhất, sâu thẳm nhất. Mỗi dịp Tết, mẹ tôi gói cho những đòn bánh tét nhỏ xíu để chơi, mẹ tôi bỏ công ra chà cái bong bóng heo đến thật mỏng, nài nỉ cha tôi bịt cho chiếc trống rung con. Chiếc trống rung thật nhỏ, cầm trên hai ngón tay, xoe đều, xoe nhẹ, hòn sáp đánh xào mặt trống căng thẳng, tiếng kêu bum bum vừa vui tai vừa hãnh diện. Trong bữa ăn, tôi nói “KonTum” ( tên tỉnh vừa biết trong bài học Địa dư) thì mẹ tôi gắp cho con tôm … Tôi chỉ nhớ được ở mẹ tôi những  chuyện vặt vãnh như thế. Ôi ! Những chuyện không nghĩa lý gì mà vô cùng thân thiết.
Mẹ tôi sắm nhiều loại bát đĩa, xếp thành từng bộ. Bộ hoa thơm, bộ ông tiên, bộ con rồng, bộ phụng tím, bộ phụng xanh… Nếu chỉ lưu lại vài ba hôm thì khách sẽ được dùng mỗi bữa ăn một bộ bát đĩa khác nhau, mỗi ngày hai bộ tách trà khác nhau. Một mình thì cha tôi uống bằng cái tách nhỏ, hơi cao, đặt trong cái đĩa tương đối rộng, vẽ ông già câu cá bằng nét nguệch ngoạc, thô cứng, cha tôi bảo đó là nét võ cách. Lúc ấy,  tôi cho rằng lòng dĩa rộng quá, không cân xứng. Còn bây giờ, tách trà không có trước mặt, tưởng tượng ra tôi mới nghiệm thấy cái ý nghĩa trong lời giảng của cha tôi. Từ trên cao nhìn xuống, lòng dĩa như mặt hồ dàn trải, sợi dây câu của Thái Công rơi đúng vào lòng tách… loang loáng dưới đáy là trời, là mây yên tĩnh. Chờ đợi và chờ đợi. Thời gian cứ trôi qua theo từng tách nước đầy vơi nhưng phao không bao giờ động đậy, không bao giờ có con cá đớp mồi. Uống trà để tìm sự yên tĩnh cho tâm hồn. Tôi nghiện trà từ những phút ngồi bên cha tôi như thế, được cho nếm thử vị trà. Cha tôi uống loại trà chữ mực, hiệu con nai đen, gởi mua tận Quy Nhơn, đựng trong thùng thiếc, đặt trên mặt tủ con. Tôi thường mở nắp, cúi mặt vào thùng, hít từng hơi dài, buồng phổi thơm ngát hương trà. Một lần vừa ngẩng lên thấy mẹ tôi đứng nhìn, ánh mắt vừa giễu cợt, vừa thương hại, nụ cười vừa bao dung, vừa bằng lòng. Tôi chạy đến ôm chầm mẹ tôi, ngây ngất thấy người mẹ cũng ngạt ngào hương trà.
Hình như là một buổi chiều sắp hết mùa đông, đã có nắng vàng ấm nhẹ. Mẹ tôi đem những thùng dầu dừa đông đặc ra phơi. Khi thấy dầu đã tan chảy hết, tôi khệ nệ bưng cái thùng hạ vào. Mẹ tôi ngồi trên thềm, âu yếm nhìn tôi và nói lời khen tặng. Thùng không còn nhiều dầu, nhẹ hẫng, song thềm nhà cao, khi bước lên bậc đá tôi vấp ngã, mũi va vào cạnh thùng, máu tuôn ra. Mẹ tôi hốt hoảng, chạy đến đỡ tôi dậy, lau vết máu , đưa vào nhà nằm nghỉ. Cái thùng hạ lăn xuống, nhờ đậy nắp kỹ, dầu không đổ. Cả cuộc đời tôi chỉ giúp cho mẹ tôi chừng ấy mà không làm xong việc.
Khi dạy học ở Hòa Đa, nhà trọ dành cho tôi một gian phòng gần đường. Trưa nào cũng vậy, từ bên kia đường vang lại tiếng đứa con gái nhỏ ru em. Đứa con gái giọng còn ngọng nghịu. Nó gào lên chứ không phải ru. Có lẽ vì không cảm nhận được thứ âm thanh thiếu ngọt ngào êm ái ấy nên em bé cứ khóc, không chịu ngủ. Nó càng gào to hơn. Hẳn là về vốn liếng về câu hát quá ít nên sau khi chuyển sang mấy đoạn mở đầu của vài ba bài hát mới, nó lại quay về điệu ơi hời, với câu:
Một mai con cá hóa rồng
Đền ơn cha mẹ kẻo công sanh thành…
Nghe đứa con gái gào mãi, quen đi, tôi lại thấy nó hát thế là hay. Sau bữa cơm trưa hình như tôi có ý đợi chờ cái giọng ngọng nghịu khô cứng ấy cất lên.
Để báo hiếu, lời hát đưa ra một điều kiện thật khó khăn: cá hóa rồng. Cá hóa rồng hoàn toàn chỉ là một hình tượng và là một hình tượng không dễ gì thực hiện nên mãi mãi còn trong niềm mơ ước: một mai… là thứ thời gian cứ tưởng gần kề mà chẳng bao giờ chịu đến.
Những buổi trưa như thế, tôi nằm tự xét mình đã lập được công gì để đền ơn mẹ và không có được lời giải đáp.
Dì Ba tôi không có con. Đó là nỗi buồn phiền lớn lao của dì. Dì không chịu nổi khi đặt câu hỏi: Mình thiếu âm đức chỗ nào mà không có con? Bàn luận mãi, cuối cùng cả dì và mẹ tôi đành tin theo những chuyện huyền hoặc của xứ sở để giải thích sự hiếm muộn của những người  sống trong thung lũng Lỗ Chảo. Dì muốn quay về Định Trung hay Vân Hòa, nhưng không dễ dàng thuyết phục dượng Ba bỏ cái cơ nghiệp từng tốn biết bao nhiêu công sức khai khẩn. Để dì bớt buồn, mùa hè mẹ tôi cho anh em tôi vào chơi với dì. Người lính trạm thường đưa thư tới cho cha tôi, được tiếp đón ân cần đã thành chỗ thân tình. Ông từ huyện ra, qua Vân Hòa rồi lên các làng trên Sở. Chặng quay về cha tôi gởi chúng tôi theo ông vào Hòa Xuân. Ông nhường con ngựa cho anh em tôi ngồi, còn ông đi bộ  phía trước.
Người lính trạm bày anh em tôi những ngôn ngữ điều khiển ngựa. Muốn nó dừng lại thì kêu “họ”. Bảo nó cẩn thận, lựa lối thì kêu “bước”. “Xanh” là phải đi thật chính đường, trái lại ,”lách” là chú ý tránh những chướng ngại vật hai bên. Anh em tôi tranh  nhau hò hét, nào bước, nào xanh, nào lách, ầm ĩ. Ông còn vui miệng giảng về nghệ  thuật đi ngựa: cầm cương thế nào để lên yên cho đẹp, cách đạp vào chân đưng để dễ dàng thúc ngựa và khi lỡ ngã không bị vướng, thế nào là gò cương, sải cương, khi xuống ngựa quăng cương thế nào để đủ mắc lên chạc cây giữ ngựa… Rồi cách thắng kiều, cách khớp ngựa nữa… Giàm con ngựa cỡi hai bên miệng là hai cái róc rách hình trái tim cho xứng với kiều da. Giàm con ngựa chở thì cần cặp róng cho dễ khớp.
Xuống khỏi dốc Đá trong, bắt đầu nhìn thấy những đỉnh núi. Núi tiếp núi nhấp nhô xa gần. Ở Vân Hòa, ở Lương Sơn, Phước Hòa, ngay trên đỉnh cao nguyên, chúng tôi chỉ nhìn thấy núi từ xa, một mảng xanh mờ chạy theo chân trời. Trước mặt chúng tôi, giờ này, núi loang lổ hai màu, màu xanh đậm của cây cối, màu xám nhạt của tranh đế. Cây đa đôi trên đầu dốc Đá Mài che mát một vùng rộng bằng mấy sân nhà. Cây da vệ đường này là nơi dừng nghỉ của bộ hành, không nhuốm vẻ thâm u như cây da chiến ở Trại Cháy hay thần bí như cây da chân dốc Trạm, lối rẽ vào chùa Linh Phứơc. Đá ở dốc Đá Mài xếp lớn, dùng mài dao rất tốt, nhờ bọt nhiều và bọt nhỏ.
Sáng hôm sau, chúng tôi theo dượng Ba đi săn gà cơm cát. Chúng tôi ra khỏi nhà khi mặt trời mọc. Thật ra, so với nơi khác thì không sớm lắm, vì chung quanh Lỗ Chảo núi quây vòng tròn. Mặt trời mọc tức là mặt trời đã lên khỏi đỉnh núi. Tranh đế ở sát ngay bờ đất cày. Con gà cơm cát đâu đó gáy lên lanh lảnh:
Chát cha chát, chát cha cha…
Chát cha chát, chát cha cha…
Mặt dượng Ba sáng rực lên, dượng ra hiệu cho chúng tôi im lặng rồi chỉ chỉ nơi phát ra tiếng gáy. Dượng đảo mắt xem xét, đặt lồng gà mồi xuống đất.  Lồng được che kín bằng những cành chim chim dày lá. Cầm cây rựa nhỏ, dượng Ba chặt nhanh ít ngọn cây rấp thành bờ rào. Vòng rào hơi giống hình thoi. Phía đỉnh nơi phát ra tiếng gà gáy còn mở rộng, phía  ba đỉnh kia đóng ba tay lưới đãy. Mỗi tay lưới lớn hơn chiếc khăn lông lau mặt, mắc sẵn trong thanh tre vót nhọn hai đầu. Thanh tre cắm xuống đất thành vòng cung. Tay lưới bọc theo vòng cung ấy. Dượng Ba chỉ chỗ cho anh em chúng tôi nấp kín mà có thể nhìn thấy đường chạy của con gà ngoài. Dượng cũng nấp kín, hai tay bê giỏ gà mồi, dùng que nhỏ chọc rồi thổi, kích thích. Con gà mồi kêu lên:
Tục tục tục tục…Tục tục tục tục …
Giọng nó trầm, đục, không lớn, nhưng vang xa. Con  gà ngoài, phóc khỏi khóm đế, dừng lại, cong cổ trả lời:
Cóc cò rò…Cóc cò rò…
Gà mồi vẫn khiêu khích: Tục tục tục tục …
              Con gà ngoài xòe cánh, xù lông cổ, hơi cúi đầu xuống trong tư thế sẵn sàng giáp chiến, xông tới. Nửa chặng đường, nó dừng lại để gáy :
       Cóc cò rò… cóc cò rò
Rồi với tư thế cũ, lao vụt như tên bắn vào nơi tưởng là khoảng trống. Tiếng kêu oác oác thất thanh. Con gà cơm cát đã mắc lưới.
Thật ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi. Chỉ chừng mươi phút sau khi nghe tiếng gáy con gà sống giữa rừng núi mênh mông đã nằm gọn trong tay tôi. Lông nó mượt mà, xếp thành những vảy đen, trong gốc trắng muốt. Bỏ vào lồng, nó vùng vẫy cố thoát, chui đầu qua lỗ nan, nhưng vô ích. Chúng tôi nhổ lưới, tiếp tục đi.
Lần sau, con gà ngoài chạy tới, gặp cồn mối chặn đường, nó dừng lại đổi hướng. Dượng Ba phải vận dụng mưu trí để nhử nó. Dượng luồn theo các bụi thấp, có khi bò sát đất, tay vẫn giữ giỏ gà mồi. Tôi tưởng tượng dượng Ba hóa thành con  gà. Trên gương mặt dượng, vẻ hồi hộp, nghe ngóng, xét đoán… hội đủ. Mắt dượng liếc nhanh chỗ này, chỗ khác, khi thoáng cau lại, khi mở tròn hết độ. Môi dượng khi hơi mím, khi nhếch cười.
              Con gà mồi: Tục tục tục tục … Tục tục tục tục …   
Con gà ngoài ngẩng đầu lên. Nó nghe đối thủ ở hướng khác: Cóc cò rò… Cóc cò rò…
Nó xòe cánh, xù lông lên cổ cúi đầu chạy tới. Dượng Ba lui lại, con gà mồi tục tục để dẫn con gà ngoài đối diện với trổ lưới. Con gà mồi càng tục mạnh càng khiêu khích dữ. Con gà ngoài như điên tiết lên :
       Cóc cò rò… Cóc cò rò …
Tiếng gáy của nó gay gắt, rắn đanh hơn, nó nhào đại vào khoảng trống. Oác oác…oác oác … Miệng lưới đã thắt lại. Nó kêu thất thanh, vùng vẫy. Đâu còn cái vẻ oai phong của một võ sĩ sắp thượng đài .
Giây phút căng thẳng qua rồi, dượng Ba mới hả hê cười nói. Dượng Ba nhắc lại những nhận định về đường chạy của con gà lúc nãy. Dượng đã nhử nó làm theo ý dượng muốn. Dượng ngồi chồm hổm, cúi đầu xuống, cung hai tay như đôi cánh, nhại điệu bộ con gà. Cổ dượng cũng hơi cong cong khi dượng gáy lên: Cóc cò rò …Cóc cò rò… Nỗi vui làm cho nét mặt dượng Ba trẻ lại. Những lúc này, tôi thấy gần gũi dượng hơn lúc nào hết. Dượng đặt chúng tôi ngang hàng với dượng khi nói về nghệ thuật săn gà cơm cát. Chúng tôi thấy đó không phải là ông dượng Ba nghiêm nghị ngồi xếp bằng trên phản gõ, hớp từng ngụm trà nói năng chậm rãi. Cũng không phải là ông dượng Ba thờ ơ, lơ đãng, quanh co khi có người tới hỏi thăm về lưới, về giò, về rập. Dượng Ba tay xách lồng đi trước. Anh em tôi mỗi đứa ôm ba bốn tay lưới theo sau. Dượng cũng nhảy nhót như chúng tôi. Dượng đá lên ngọn cỏ, phóng qua bụi chòi mòi sẻ. Gặp một chùm múi dẻ chín dượng hái chia cho anh em tôi, dượng cũng ăn một trái, khen thơm, khen ngọt .
Chát cha chát chát cha cha…
Chát cha chát chát cha cha …
Dượng Ba chợt nghiêm lại, lắng nghe  và chuẩn bị để bắt thêm con gà cơm cát nữa.
Buổi chiều, khi ngồi nhổ lông gà  dì Ba kể cho chúng tôi nghe sự tích của nó. Rằng, ngày xưa có đứa con trai mồ côi mẹ. Cha nó tục huyền, gặp người đàn bà khắc nghiệt, bắt đứa con chồng làm việc vất vả, lại trộn cát và chén cơm cho nó ăn. Đứa bé không ăn được rồi đói quá, phải ráng mà nuốt. Cát trong bụng không tiêu hóa, bụng đứa bé ngày càng đầy mà thân thể ngày càng vàng vọt, chỉ còn da bọc xương. Mỗi bữa, đứa bé vừa khóc vừa ăn, nước mắt chan vào chén cơm đầm đìa như chan canh. Lượng cát cứ tăng thêm, cơm thì dần dần rút bớt, đến một hôm ráng đến nghẹn cổ, tắc họng, ngã ra chết. Đứa bé hóa ra con gà cơm cát, kêu lên những tiếng xé lòng :
Xúc cơm cát trả cho cha…
Xúc cơm cát trả cho cha….
Phải rồi! Phải rồi! Tôi đã nghe trong tiếng con gà cơm cát có cái gì khô rát, uất hận, nghẹn ngào, như rướm máu. Tôi ứa nước mắt, thương cho số phận người con trai mồ côi thưở trước.
Mùa thu, dì Ba đột ngột qua đời sau một cơn bênh ngắn. Mọi người đều thương tiếc. Đau buồn hơn hết là mẹ tôi. Lớn lên, nhớ lại nụ cười trong mắt dì Ba, tôi hiểu nỗi buồn to tát của mẹ tôi. Mẹ tôi đã mất một  người chị, một người bạn, mất luôn cả tuổi nhỏ thơ ngây, cả những kỷ niệm vụng về của thời con gái. Tôi nhớ căn nhà ngoại, vườn rộng, sân rộng, bóng che mát rợp, hàng trắc ba diệp chỉa lá hình cánh quạt. Từ đó, tôi tưởng tượng ra biết bao nhiêu ngày tháng êm đềm của hai chị em: dì Ba và mẹ tôi.
Dượng Ba tục huyền với một người ở Hòa Xuân, vào tuổi lỡ thì. Dượng Ba có đưa bà này ra thăm gia đình cha mẹ tôi để giữ mối thân tình. Anh em tôi gọi bà là dì Ba sau.
Gia đình tôi vẫn là trạm dừng chân của dượng Ba mỗi khi đi, về, Hòa Xuân - Định Trung. Trong các buổi quây quần bà con hai bên, như mọi lần, địa vị dượng Ba vẫn không thay đổi. Tôi lại có dịp vào Hòa Xuân theo dượng Ba đi săn gà cơm cát bằng lưới đãy và gài bằng trái gạc nai. Dì Ba sau kể lại cho chúng tôi nghe sự tích con gà cơm cát, cũng như dì Ba tôi đã kể, có khác là trong tiếng kêu rát bỏng ấy lại có thêm một câu nữa, thành ra:
Xúc cơm cát trả cho cha .
Đánh dì ghẻ bể óc ra…
                Tôi hơi lạ lùng. Rồi quên đi.
Nhiều năm tháng trôi qua, dì Ba sau cũng không có con.
          Rồi mẹ tôi mất. Không bao giờ còn những bữa ăn vui vẻ, đông đủ bà con hai bên, mỗi bữa ăn dùng một bộ bát đĩa, mọi người đều nói về  mẹ tôi  một cách tự hào, cảm mến và kính phục. Gia đình tôi rời khỏi Vân Hòa khi đất nước bắt đầu bước vào cuộc chiến tranh đằng đẵng ba mươi năm ...
*

Qua trảng dài tranh đế Sơn Nguyên, qua cánh đồng Lỗ Chảo, qua Đá Bàn. Tiếng gà cơm cát, chỗ này, chỗ kia, vang lên lanh lảnh:
Chát cha chát chát cha cha…
Xúc cơm cát trả cho cha…
Quả thật âm thanh nghẹn ngào như cát đầy trong miệng .
           Lên đầu dốc Đá Trong không nghe tiếng gà ấy nữa. Gà cơm cát không có trên vùng đất trân. Suốt từ Lương Sơn qua Vân Hòa, Phong Cao, Trung Trinh, lên Phước Hòa, Trung Hòa không hề văng vẳng một tiếng gà cơm cát.
Tôi nhớ lại sự tích đứa bé mồ côi do dì Ba kể và dì Ba sau bổ sung. Sự tích này không nghe trên vùng đất trân. Nếu có mẹ tôi đã kể rồi. Tất cả các cổ tích tôi biết trước khi đọc được trong sách vở đều do mẹ tôi truyền miệng. Từ những chuyện xa xôi các nơi đến những chuyện gần gũi trong thôn xóm: Chuyện cha con ông Chăm Mùng giết con thuồng luồng ở Tống Đạt, chuyện vị Thành Hoàng bổn xứ anh dũng chống trả bọn cướp, trước khi ngã xuống còn trừng trừng nhìn chúng đến rách cả khóe mắt, máu chảy đỏ ngầu, chuyện các ông tiên đánh cờ trên mặt vũng Vụ… Không có chuyện đứa bé hóa ra gà cơm cát. Vậy dì Ba đã nghe sự tích ấy ở Lỗ Chảo, nơi dì đã sống, hoặc ở Đá Bàn, Ngân Điền, nơi dì thường đến, tức là trên vùng đất cát, quê hương của giống chim rừng này .
Xúc cơm cát trả cho cha…
Xúc cơm cát trả cho cha…
Qua hàng nghìn năm, tiếng kêu uất nghẹn, chừng ấy đã đủ thảm thiết, đau đớn! Cần gì thêm vào lời hăm họa hằn học nặng nề đàng sau. Có lẽ khi nghe chuyện dì Ba vẫn nghe đủ như dì Ba sau, nhưng khi kể lại cho anh em tôi dì đã cắt bỏ câu cuối. Chính vì lòng nhân hậu dì đã làm như vậy. Dì không muốn gieo vào đầu óc thơ ngây trong trắng của chúng tôi sự căm thù thô bạo. Đó cũng là cái cao quý, nhân hậu của lòng mẹ, cho dẫu như dì Ba tôi, tha thiết biết bao mà chưa một lần được mang nặng đẻ đau, chưa được làm Mẹ .
Những năm sống xa quê, gặp những người có đi qua, có biết đến xứ sở mình, tôi thường giấu lai lịch đi để nghe họ nói. Những điều ấy tôi đã biết, biết từ nhỏ. Có người thêu dệt thêm vài chi tiết. Có người bỏ sót một số chi tiết. Tôi lắng nghe, chờ đợi, hồi hộp và sung sướng như mới nghe lần đầu, mới phát hiện được điều mới lạ .
Nấm mộ mẹ tôi ngày trước, qua khỏi Ruộng Cầu theo một lỗi rẽ. Lối rẽ ấy song song với đường cái, tạo cho chúng tôi cái ảo giác nơi mẹ nằm khá xa đường. Chung quanh là rừng chồi, hoa trâm dại mùi thơm gắt. Hoa màu trắng ẩn hồng ẩn tím, cành gai, lá nhám. Xa chút về phía tây, mấy cây thị thân thẳng vươn cao. Đó là lối vào dinh Ông, miễu thờ vị Thành Hoàng bổn xứ. Không khí linh thiêng lan tận mấy ngọn cây này.
Ngày nay, lối mòn song song và rừng chồi bị xóa mất. Nơi mẹ nằm chỉ cách đường có mấy thước. Trưa tháng năm, trời xanh cao vút. Không còn chòm trâm dại, nên không còn bầy chào mào ríu rít, bầy bồ chao ra rả ồn ào. Không còn mấy ngọn thị vương vấn khí thiêng. Nhìn vào phía đó, nông trường đang mở, những luống cà phê mới lớn nối tiếp nhau chạy dài mãi mãi đến chân trời. Tiếng xe ủi, máy cày rì rì nổ đều từ xa, thỉnh thoảng rú mạnh.
Vết tích chiến tranh còn để lại một dấu đạn trên bia mộ mẹ tôi. Thoi cốt sắt lộ ra, mòn nhỏ, rỉ sét. Mặt xi măng rơi vỡ khá rộng. Chỉ còn đọc được hàng chữ một bên, những chữ trên và dưới cùng. Tôi cắm bó hương vừa cháy bén lên bệ bia bằng đá ong, ngồi nhìn làn khói mỏng tan bay, nghĩ đến mẹ tôi, dì Ba, đến lớp sinh thành đã sống bằng tấm lòng tràn đầy nhân hậu.  

TRẦN HUIỀN ÂN