Tuesday, March 22, 2016

215 b. TRẦN HUIỀN ÂN Phú Yên, dọc đường ca dao Kỳ 2)


Sông Đà Rằng (Tuy Hòa, Phú Yên) – Nguồn: lendang.vn



(Tiếp theo và hết)


       Anh chèo thuyền ra biển
       Anh câu con cá din ba gang
       Đem lên Hòn Gió thăm nàng
       Bệnh tình mau mạnh kết đàng nghĩa nhơn

-Hòn Gió: Núi thuộc xã An Lĩnh huyện Tuy An. Xóm dân ở đây gọi là Xóm Hòn Gió.
-Cá diễn: Loại cá biển ngon, ở miền núi hiếm cá, đem tặng nàng đúng là hợp nhơn nghĩa.

       Lỗ Chài đá dựng
       Dốc đứng Đồng Tranh
       Có ai lên đó với mình
       Ghé thăm cảnh cũ Gò Dinh Từ Hàn
       Chiều chiều ngọn gió thổi ngang
       Bẻ bông sim tím cho nàng cài trâm

-Đồng Tranh:  Dốc dài trên đường núi từ xã Hòa Kiến thành phố Tuy Hòa qua xã An Thọ huyện Tuy An lên xã Sơn Long huyện Sơn Hòa. Đi giữa các trảng đế nên tương đối ít ngặt hơn dốc Lỗ Chài. Dốc Đồng Tranh nằm phía bắc dốc Lỗ Chài, hai dốc gặp nhau tại thôn Kim Sơn  xã An Thọ.
-Gò Dinh: Gò cỏ xóm Quán Lê (ngày trước thuộc làng Vân Hòa, nay thuộc thôn Phong Hậu) xã Sơn Long huyện Sơn Hòa. Năm 1885 Lê Thành Phương dự định xây dựng căn c sơn phòng tại đây, nhưng việc chưa thành cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị Pháp bắt xử tử. Dinh có nghĩa là doanh trại của Lê Thành Phương. Cách gọi do lòng tôn kính của dân địa phương.
-Từ Hàn: Gọi tắt chức vụ Xuân Vinh quân thứ từ hàn,  giữ việc văn phòng bút lục của Lê Thành Phương. Người này tên là Trần Bá Đại, được Lê Thành Phương cử lên Vân Hòa lo việc xây dựng sơn phòng.

       Chợ Đồn một tháng chín phiên
       Gặp nhau chi nữa để phiền cho nhau
       Người về khuất nẻo Sống Trâu
       Để ta thui thủi Dốc Lau một mình

-Chợ Đồn: Ch tại làng Vân Hòa xã Sơn Long huyện Sơn Hòa, mỗi tháng họp 9 phiên vào các ngày 3, 13, 23, 6, 16, 26, 9, 19, 29. Đông nhất vào mùa trái cây. Nay không còn chợ.  
-Sống Trâu: Một đoạn trên đường từ xã Sơn Long huyện Sơn Hòa ra xã An Xuân huyện Tuy An. Lối đi đắp cao giữa thung lũng, giống như xương sống con trâu.
-Dốc Lau: Dốc trên đường từ xã Sơn Long huyện Sơn Hòa xuống xã An Lĩnh huyện Tuy An. Hai bên dốc nhiều cây  lau. Tại đây có một xóm nhỏ thuộc làng Vân Hòa xã Sơn Long gọi là xóm Dốc Lau. Nay xóm không còn.

       Khoai lang Suối Mít
       Đậu phụng Hòn Vung
       Chàng đào thiếp mót đổ chung một gùi
       Vì đâu duyên nợ sụt sùi
       Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi
       Chim kêu dưới suối Từ Bi
       Nghĩa nhơn còn bỏ huống chi cái gùi

-Suối Mít, Hòn Vung: Suối nhỏ và núi nhỏ ở làng Trung Hòa, nay là thôn Hòa Trinh xã Sơn Định huyện Sơn Hòa, trồng nhiều khoai lang, đậu phụng. Trung Hòa là một làng nhỏ, còn có tên nôm là xóm Suối Mít. Khoai lang Suối Mít tức là khoai lang ở xóm Suối Mít.
-Suối Từ Bi: Vùng này không có suối Từ Bi. Tên cũ đã mất? Hay nói cho hiệp vần? Ở xã An Hiệp huyện Tuy An, gần đầm Ô Loan, đèo Quán Cau có núi Từ Bi. Nhưng hai nơi quá xa thì sự liên hệ thế nào?

       Thuốc nào ngon bằng thuốc Lỗ Quy
       Nhơn cùng tắc biến phải đi lượm tàn

-Lỗ Quy: Vùng đất thuộc làng Trung Hòa, nay là thôn Hòa Trinh xã Sơn Định huyện Sơn Hòa. Sơn Định nằm trong cao nguyên Vân Hòa, đất trân màu nâu đỏ, thích hợp với khoai đậu và thuốc lá. Thuốc lá Lỗ Quy có tiếng là ngon. Ở Phú Yên nhiều nơi mang địa danh có tiếng” Lỗ”, như: Lỗ Vàng, Lỗ Chảo, Lỗ Rong, Lỗ Đá, Lỗ Hùm, Lỗ Chài, Lỗ Quy, Lỗ Sấu, Lỗ Lươn… hầu jeest là các thung lũng, chí có Lỗ Chài là tên dốc.

       Ngó lên trên núi Dinh Ông
       Thiên hạ xào xáo em không thấy chàng
       Tóc dài bỏ xỏa rối ngang
       Tay cầm lược gỡ ngồi than bóng đèn
       Than rằng :
       Con cá bơi dưới nước
       Con vịt lội bàu sen
       Chàu rày không thấy bạn quen đi đàng
       Ngậm ngùi thương phụng nhớ loan
       Gởi lời cho gió gió  mang về trời
       Đêm nằm ruột rã gan rời
       Thức thời thương nhớ ngủ thời chiêm bao
       Đặt mình xuống tấm ván sao
       Giật mình tỉnh dậy nước mắt trào như mưa
       Trông trời đã sáng hay chưa
       Bước ra đường cái đón đưa bộ hành
       Trồng cây cũng muốn cây xanh
       Gá duyên với bạn cũng muốn thành phu thê

-Dinh Ông: Núi thuộc xã Hòa Định Đông huyện Phú Hòa. Đây là mặt phía tây của Thành Hồ. Ngày trước có miếu thờ Cao Các Quảng độ đại vương tôn thần, gọi là Dinh Ông, nên núi mang tên núi Dinh Ông, đoạn đèo trên quốc lộ 25 đi qua đây gọi là đèo Dinh Ông .

       Thương em anh cũng muốn qua
       Sợ cọp Núi Lá sợ ma Bãi Điều

-Núi Lá: Núi cao 453m, nằm bên hữu ngạn sông Ba, trước thuộc địa phận huyện  Sơn Hòa, nay là huyện Sông Hinh, một thời có tiếng nhiều cọp, như tục ngữ nói: Cọp núi Lá, cá sông Hinh.
-Bãi Điều: Bãi đất nằm bên tả ngạn sông Ba, thuộc thị trấn Củng Sơn huyện Sơn Hòa, đối diện với núi Lá. Có người nói nơi đây nhiều cây điều hoang. Có người nói điều là màu đỏ, màu máu, Bãi Điều từng là pháp trường thời Cần Vương, ít nhất là hai lần, một lần Văn Thân sát tả và một lần thực dân Pháp hành quyết những nghĩa quân trong lực lượng Lê Thành Phương.

       Ngó lên Mỹ Thạnh cảnh tiên
       Thấy anh chức trọng cao quyền dám đâu

-Mỹ Thạnh: Địa phận thuộc xã Hòa Phong huyện Tây Hòa, trên đường tỉnh 645 (Phú Lâm đi Sông Hinh), nơi có nhiều phong cảnh đẹp như núi Hương, Bàu Hương. Trước năm 1975 gồm 3 thôn: Mỹ Thạnh Đông. Mỹ Thạnh Trung và Mỹ Thạnh Tây. Nay chia ra 5 thôn, 2 thôn Mỹ Thạnh Đông, 2 thôn Mỹ Thạnh Tây và 1 thôn Mỹ Thạnh Trung.

     Ngó lên Mỹ Thạnh cảnh tiên
     Cảnh tiên không thấy thấy duyên của nàng
     Muốn gây tơ tóc cùng nàng
     Sợ e duyên kiếp bẽ bàng rồi sao?

-Muốn và S: Gặp khá nhiều trong ca dao Phú Yên, như những câu trên Muốn về Soi Bún ăn dưa… Muốn về Mỹ Á ăn dừa… Muốn ăn hột nếp Vườn Trầu… Và nhiều câu nữa không có địa danh.

     Ngó lên Đất Đỏ cỏ vàng
     Em còn chút mẹ cậy chàng viếng thăm

-Đất Đỏ: Địa phận các xã Sơn Thành Đông, Sơn Thành Tây trước thuộc huyện (quận) Sơn Hòa, rồi quận Hiếu Xương, nay thuộc huyện Tây Hòa, chất đất màu đỏ  rất thích  hợp với bắp và thuốc lá, là hai nông sản nổi tiếng từ xưa.
-Trong một bài viết, thi sĩ Quách Tấn kể chuyện ở Bình Định: Sau khi Mai Xuân Thưởng bị tử hình, một đêm các chiến hữu của ông cầu cơ, cơ giáng bút rằng: Chim kêu dưới suối Đá Dàng. Em còn chút mẹ cậy chàng viếng thăm. Quê của Mai  Xuân Thưởng có suối Đá Dàng, người bạn cầu cơ ấy biết ngay là lời Mai Xuân Thưởng giáng bút gởi gắm, ôm lấy cơ bút “khóc ròng” (chữ của Quách tiên sinh).
         
     Muốn về đất biển ăn cua
     So đi tính lại cũng thua Nam Bình
     Nam Bình nhiều mía nhiều đàng
     Nhiều khoai môn ấp đầy sàng phủ phê
     
-Nam Bình: Địa phận thuộc xã Hòa Xuân Tây huyện Đông Hòa, trong vùng đồng bằng châu thổ sông Bàn Thạch, chuyên làm nghề nông, nhiều nông sản.

     Tiếng đồn Hộ Tịnh giàu lâu
     Cưới con Thông Lý đưa dâu bằng bò

-Một giai thoại vui về đám cưới ở Phú Yên. Có người nói: Hộ Tịnh là một người giàu có ở Phú Nhiêu nay thuộc xã Hòa Mỹ Đông huyện Tây Hòa, cưới con gái Thông Lý, người Bàu Hương làm Thông lại phủ Tuy Hòa. Khi rước dâu thay vì đi cáng hay đi ngựa ông mời cô dâu cỡi con bò, trên lưng bò bao phủ vải điều. Từ Bàu Hương (Hòa Phong) về Phú Nhiêu (Hòa Mỹ Đông) đường khá xa, qua nhiều xóm làng, tha hồ cho thiên hạ bàn tán gây nên tiếng đồn. Có người bảo: Không phải vậy. Con bò trong đám cưới chẳng phải dùng làm phương tiện giao thông mà là một trong tam sinh, cô dâu đưa về làm lễ bái yết gia tiên bên chồng. Lưng bò được choàng vải điều, gây sự chú ý cho bà con. Có người lại nói: Hộ Tịnh gả con cho Thôn Lý, chứ không phải cưới con Thông Lý . Câu ca dao đầy đủ là:

     Tiếng đồn Hộ Tịnh giàu lâu
     Gả con Thôn Lý đưa dâu bằng bò
     Khen cho Hộ Tịnh biết lo
     Đưa heo thì mất đưa bò còn nguyên

-Tiếng đồn “ tam sao thất bổn” nhưng xét thấy dù cưới hay gả, con bò để làm lễ hay để cỡi, phải công nhận người đưa ra sáng kiến này thật táo bạo. Vào cái thời những lễ nghi phong tục là sợi dây ràng buộc chặt chẽ mà dám phá lệ như vậy, dẫn con bò vào đám rước dâu, đưa dâu, gan lắm chứ. Tiếng đồn là phải.

-Còn một tiếng đồn nữa:
         
     Tiếng đồn Chánh Súc giàu lâ         
     Gả con Xã Rựa đưa dâu bằng bè         
     Đưa thì đưa sõng đưa ghe         
     Sao lại đưa bè ướt áo họ trai         
     Ướt rồi cổi ái vắt vai         
     Hai làng hai họ biết ai mà chào

-Chánh SúcXã Rựa, là hai người thật hay chỉ là cái tên giả định cho câu chuyện? Không rõ. Chắc đám cưới này đi trên sông Đà Rằng. Cái cảnh các cụ già, các  ông lớn ngồi trên bè lắc lư bị nước sông tạt lên ướt loi ngoi,  cổi áo vắt vai, trông người nào như người nấy, không còn phong thái uy nghi bệ vệ, ngộ lắm và không kém nét hùng vậy!
         
     Sông sâu nhiều lạch
     Chợ Bàn Thạch nhiều lươn
     Nhắm bề thương đặng thì thương
     Đừng trao gánh nặng giữa đường khổ em

-Chợ Bàn Thạch: Chợ ở phía nam sông Bàn Thạch, sát quốc lộ 1A, trong địa phận thôn Bàn Nham xã Hòa Xuân Tây huyện Đông Hòa. Từ năm 1832 về trước Bàn Nham có tên là thôn Bàn Thạch Đông, và chợ ở sát bờ sông Bàn Thạch nên gọi là chợ Bàn Thạch.

     Sông Bàn Thạch quanh co uốn khúc
     Ngọn Đá Bia cao vút tầng mây
     Non kia nước nọ còn đây
     Mà người non nước ngày nay phương nào?

-Sông Bàn Thạch: Một trong 4 sông chính của Phú Yên, là sông chính của huyện Đông Hòa. Tên chữ Hán trong Phú Yên đạo đồ là Thạch Bàn giang. Phát nguyên từ Hòn Dù trong dãy Đèo Cả. mang tên sông Đá Đen, khi xuống đồng bằng là sông Bánh Lái, sông Bàu Sắc, đến Hội Cư mới chính thức là sông Bàn Thạch chảy ra cửa Đà Nông. Lại có một nhánh t hồ Hảo Sơn chảy ra hợp lưu. Ngày xưa sông Bàn Thạch nhiều cá sấu. Triều Minh Mạng có lệ ban thưởng 30 quan cho ai giết một con cá sấu.
-Nhìn sông Bàn Thạch quanh co, núi Đá Bia cao vút, chạnh tưởng “người non nước” ngày xưa có công mở cõi. Từ huyền thoại Lê Thánh Tông khắc bia đến sự kiện Lương Văn Chánh khai khẩn vùng Bà Nông (tức Đà Nông, châu thổ sông Bàn Thạch), Văn Phong lập phủ Phú Yên và Hùng Lộc, Minh Võ vượt qua đèo Hổ Dương đặt dinh Thái Khang. Dù ngày nay không biết những “người non nước” ấy ở phương nào, vẫn hiểu rằng dải giang sơn này chính do công huân tiền nhân để lại cho hậu thế.

     Chiều chiều mây phủ Đá Bia
     Đá Bia mây phủ chị kia mất chồng
     Mất chồng như nậu mất trâu
     Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bôm
    - Mất chồng tôi chẳng có lo
    Sợ anh mất vợ nằm co một mình

-Lời đối đáp của người phụ nữ xem ra hóm hỉnh và hợp tình hợp lý. Phần nói về Núi Đá Bia trong công trình  nghiên cứu Tỉnh Phú Yên trên tạp chí Đô Thành hiếu cổ năm 1929, nhà nghiên cứu  A. Laborde cho rằng “chồng” là “Ông Bia”, vợ (tức “chị kia”) là Hòn Bà. Người vợ không trông thấy chồng vì mây che khuất, nhưng chẳng có lo, chẳng phải chạy đi tìm để “tóc bay trong gió” (cheveux aux vents), chốc nữa mây sẽ tan, Ông Bia sẽ hiện rõ để vợ trông thấy chồng.  

     Một mai sóng bổ Bãi Bàng
     Một ngày xa bạn ăn vàng không ngon

-Bãi Bàng : Bãi biển có hiều cây bàng. Ở Phú Yên nhiều nơi mang tên Bãi Bàng: phía đông vũng Cù Mông trên đường ra Qui Nhơn, ở thôn Nhơn Sơn xã An Hòa huyện Tuy An, ở thôn Phú Ốc xã An Ninh Đông huyện Tuy An, ở Vũng Rô v.v...
-Sóng b, hay sóng bủa là sóng vỗ vào bờ, nhẹ nhàng, đều đặn và thường xuyên, không phải sóng đánh nhanh và mạnh.

     Đứng trên Đèo Cả
     Ngó xuống Vạn Giã, Tu Bông
     Chẳng biết lòng cha mẹ đành không
     Để anh chờ em đợi uổng công hai đàng

(Câu đầu có bản khác)

     Đứng trên đèo Cổ Mã

-Vạn Giã: Thị trấn huyện lỵ huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa, nằm trên quốc lộ 1A và đường sắt, cách Tuy Hòa 60km, Nha Trang 60km.
-Tu Bông: Địa phận thuộc huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa, giữa Đại Lãnh và Vạn Giã, cũng nằm trên quốc lộ 1A và đường sắt. Tên xưa là Tu Hoa, đổi thành Tu Bông do kiêng tên bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị. (Cũng như Thanh Hoa đổi thành Thanh Hóa). Nơi đây có luồng gió thổi giữa hai triền núi tất mạnh nên có câu: Gió Tu Hoa, ma Bình Thuận.
-Đèo Cổ Mã: Đèo trên quốc lộ 1A, phía nam Đèo Cả, qua khỏi Đại Lãnh.
-Đứng trên đèo Cổ Mã dễ nhìn thấy Vạn Giã Tu Bông hơn đèo Cả vì gần hơn.

     Con ngựa tía ăn quanh Đèo Cả
     Vầng nguyệt đêm rằm bóng ngã về đông
     Chẳng thà tôi giục mã về không
     Chớ không thèm cướp vợ tranh chồng người ta

     Tiếng đồn Bình Định tốt nhà
     Phú Yên tốt ruộng, Khánh Hòa tốt trâu

-Ba “thế mạnh“ của ba địa phương. Bình Định có nhiều thợ mộc cất nhà chắc chắn và đẹp, những người giàu ở Phú Yên khi cất nhà  thường ra Bình Định rước thợ. Khánh Hòa nuôi nhiều trâu ở Vạn Ninh, Ninh Hòa. Nhà tốt do ta xây dựng, trâu tốt do ta mua sắm và chăm sóc, đều bằng sức người, còn ruộng tốt, trước hết phải  được thiên nhiên ưu đãi ban tặng.

     Anh về Bình Định thăm cha
     Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em

-Đây là hình ảnh xây dựng gia đình, phát triển theo chiều hướng nam tiến của dân tộc nhìn thấy trong phạm vi Nam Trung Bộ. Ở thế hệ thứ nhất, người đàn ông Bình Định vào Phú Yên cưới vợ, sinh con. Ở thế hệ thứ hai, chàng trai Phú Yên vào Khánh Hòa cưới vợ. Anh ta có cha gốc Bình Định, mẹ gốc Phú Yên và bạn đời là người Khánh Hòa. Hiếm khi thấy có trường hợp đi ngược lại. Nhìn rộng hơn, qua lịch sử mở nước thì Bình Định gia nhập lãnh thổ Đại Việt năm 1471, Phú Yên năm 1597 và Khánh Hòa năm 1653.

Quá khứ của Phú Yên trong lịch sử dân tộc chưa dày lắm. Năm 1597 Lương Văn Chánh đưa lưu dân vào lập nghiệp, năm 1611 đặt phủ Phú Yên cử Văn Phong làm Lưu thủ. Phú Yên không là nơi xuất thân nhiều anh hùng, nữ lưu kiệt xuất, nhiều bậc khoa bảng lừng danh để cho hậu thế nương nhờ uy tín quê hương mà xưng danh bằng tên làng, tên huyện.

Tiền nhân khai lập Phú Yên phần lớn đã hóa mình trong tập thể. Người dân Phú Yên, vì thế, yêu mến tiền nhân vô danh bằng tình yêu non sông, đất nước, thấy nơi nào cũng đẹp, cũng đáng thương, đáng quý. Này là dòng sông ngọn núi, này là bãi biển bờ gành, những ngôi chùa cổ, những chuyện tích xưa… Tất cả đều gần gũi quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày như khí trời, nước giếng.

Sản phẩm của Phú Yên cũng không nhiều, không lớn, chỉ có lúa bắp bình thường, chỉ keo kết lại trong sự đằm thắm mộc mạc nguyên vẹn chút vị quê mùa ở quả xoài Đá Trắng, chén tương Thiên Thai, khoai lang Suối Mít, thuốc lá Lỗ Quy, con cá gúng, con tôm rằn… Người dân Phú Yên đã thiết tha gắn bó với những gì bé nhỏ thân mật ấy, luôn luôn nói về nó, dù lời lẽ phần nào thiếu văn hoa mà tình cảm vô cùng sâu sắc. Tình yêu quê hương cũng không thể lý giải, giống như tình con yêu mẹ, tình mẹ yêu con. Thành ra không nên trách người dân Phú Yên xưa trải một thời phong bế, thiếu tầm mắt trông rộng, thiếu đôi tai nghe xa. Cái gì thấy, cũng có vẻ lạ lùng. Điều gì nghe, cũng có phần mới mẻ. Rụt rè, e ngại – nhiều khi.

Đi tìm lịch sử trong ca dao Phú Yên cũng là điều khó, mặc dù đây là vùng đất mới, lại là vùng đất tranh chấp dai dẳng. Bao nhiêu máu, bao nhiêu xương, bao nhiêu mồ hôi nước mắt đã đổ xuống, đã thấm đậm trong từng tấc đất. Rồi chiến tranh mỗi thời ra sao. Đều không thấy ca dao nhắc đến. Có lẽ do bản tính người Phú Yên nhân hậu, coi những chuyện ấy là tai trời nạn nước, khi tai trời đã khỏi, nạn nước đã qua, hãy quên đi chuyện đâm chém, hận thù. Tất cả là đồng bào, xét rộng hơn thì ai cũng đầu đen máu đỏ. Hãy cùng nhau yêu thương mà xây dựng ấm no, hạnh phúc.

Vì vậy trong ca dao Phú Yên ghi nhận dọc đường bàng bạc tình thương. Ngoài phong cảnh thiên nhiên thì thương những Vũng La, Vũng Lấm, cù lao Ông Xá, đảnh dốc Xuân Đài.. Trong phạm vi gia đình thì thương Sơn Triều hàng cau xanh mướt, Nam Bình mía ngọt khoai bùi. Qua những Chóp Chài, Đèo Cả, Hòn Yến, Dinh Ông… tình yêu đôi lứa càng thêm tha thiết mặn nồng:
         
Đêm nằm ruột rã gan rờ         
Thức thời thương nhớ, ngủ thời chiêm bao

Và:


         
Một mai sóng bổ Bãi Bàng         
Một ngày xa bạn ăn vàng không ngon…

TRẦN HUIỀN ÂN