Xuôi
theo vạn lý… Hướng về nam…
Ai
đã qua đèo Ngang, đã sang Ba Đồn, với dòng sông Gianh, biết danh Lũy Thầy…
Rồi…
Thiên Mụ - Cửa Hàn – Trà Khúc – Thị Nại… Từ Bình Định vượt Cù Mông vào Phú Yên.
Từ Phú Yên vượt Đèo Cả vào Khánh
Hòa.
Một số câu ca dao dưới đây đã được trích dẫn rải rác ở
các phần trước. Trong phần này xin tập họp lại đầy đủ và hệ thống theo con đường
cái quan bắc-nam đi qua Phú Yên, có những đoạn rẽ lên phía tây, hình dung đó là
con đường thời xa xưa Lương Văn Chánh đưa lưu dân vào đây lập nghiệp.
Tiếng ai than khóc nỉ non
Là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông
Công tôi gánh gánh gồng gồng
Trở ra theo chồng bảy bị còn ba
(hai câu sau có bản khác)
Xa xa em đứng em trông
Thấy đoàn lính thú hỏi chồng em đâu
-Cù
Mông: Dãy núi giữa hai tỉnh Bình Định và Phú Yên, có ngọn đèo cao 245m.
Nghe tiếng hát buồn làm sao không thử hỏi: Người lính trèo hòn Cù Mông đã tòng
ngũ từ thời
Chúa Nguyễn, hay về sau, trong quân đội của nhà Tây Sơn hoặc của Nguyễn Vương?
Giai đoạn chiến tranh giữa hai họ Nguyễn, Phú Yên là chiến trường đỏ lửa, người
dân nơi đây phải đi lính, nộp thuế, sưu dịch, đóng góp của cải và sinh mạng cho
cả hai bên. Nỗi đau thương đè nặng lên đôi vai gầy, đôi chân yếu của người phụ
nữ, gánh gạo theo chồng hoặc chỉ dám đứng nhìn khuất nẻo xa xa .
Cá
ngon là cá Cù Mông
Gạo
ngon là gạo ở đồng Phú Lương
-Phú
Lương: Một làng trong vùng đồng bằng Đà Nông, nằm bên
sông Bàn Thạch, thuộc xã Hòa Tân Đông huyện Đông Hòa, nơi sản xuất nhiều gạo
ngon.
Thương
anh em cũng muốn vong
Hiềm
vì một nỗi Cù Mông khó trèo
Hồi
xa cách vách cũng xa
Hồi
gần Gò Duối, Hòa Đa cũng gần
(câu
sau có bản khác, nói chung chung)
Hồi
gần cách huyện cách nha cũng gần
-Gò
Duối: Thuộc thôn Chánh Lộc xã Xuân Lộc thị xã Sông Cầu. Ngày trước là nơi sản
xuất lụa lãnh có tiếng.
-Hòa
Đa: Thôn thuộc xã An Mỹ huyện Tuy An. Trước năm 1975 nuôi nhiều ngựa đi
buôn lên miền núi, có nhiều xe ngựa. Nghề bánh tráng ở đây rất nổi tiếng, nay vẫn còn.
-Gò
Duối và Hòa Đa tuy nằm trên trục đường thiên lý, nhưng khác phủ, huyện, Gò Duối
ở phía bắc,
nay thuộc thị xã Sông Cầu, Hòa Đa ở phía nam, nay thuộc huyện Tuy An, hai nơi cách nhau khoảng
60km.
-Nhiều
nơi có câu ca dao theo dạng này: Hồi xa… Hồi gần.
Chiều
chiều quạ nói với diều
Ở trong Quán Đế thiệt nhiều gà con
-Quán
Đế: Một xóm trong thôn Bình Thạnh, nằm trên quốc lộ 1A, nay thuộc xã Xuân
Bình thị xã Sông Cầu.
Ngó
vô Quán Đảnh lao xao
Ham
mê lá liễu quên chào bạn xưa
-Quán
Đảnh: Không rõ bây giờ là nơi nào. Lá liễu, trong
quân bài chòi còn có tên tục là lá l…. Chắc Quán Đảnh là nơi có phần ô hợp, nên
ở đây ngụ ý lời chê
trách, vì ham mê “lá liễu” mà quên người cũ.
Bình
Định tỉnh Phú Yên cũng tỉnh
Long
Bình
thôn Phước Lý cũng thôn
Đố
ông gì mà chết không chôn
Đem
ra mà bỏ chim chồn không ăn
-Long
Bình và Phước Lý: Long Bình là tỉnh lỵ Sông Cầu từ năm 1899 đến
năm 1945. Phước Lý sát phía bắc Long Bình. Nay Long Bình thuộc phường Xuân Phú,
Phước Lý thuộc phường Xuân Yên cùng thị xã Sông Cầu.
-Đây
là một câu đố, theo thể hứng.
-Hai
câu đầu còn ngụ ý tự tôn, Bình Định là tỉnh lớn, Phú Yên là tỉnh nhỏ, tuy rằng
lớn nhỏ, nhưng hai bên cũng là tỉnh, chẳng có gì khác nhau. Long
Bình là tỉnh lỵ (Phú Yên), Phước Lý không phải tỉnh lỵ, nhưng hai nơi cũng
là thôn, chẳng có gì khác nhau. Một bản khác câu này là: Gò
Chàm thôn Gò Duối cũng thôn. Gò Chàm thuộc Bình Định, Gò Duối thuộc
Phú Yên, tuy khác tỉnh, tỉnh lớn tỉnh nhỏ, đều cùng xứ Gò, cũng là thôn,
có khác gì đâu.
-Hai
câu sau giải là “ông bình vôi” hoặc “ông táo”, chết (hết dùng được) không chôn,
đem bỏ nơi gốc cây lớn, chim chồn không ăn.
Nước ròng chảy thấu Tam Giang
Sầu đâu chín rụng sao chàng bặt tin
-Tam Giang: Một trong 4 sông chính của Phú Yên.
Sông Tam Giang ở phía đông bắc tỉnh, trong phạm vi thị xã Sông Cầu, từ dãy Cù
Mông chảy xuống vịnh Xuân Đài, qua nội thị Sông Cầu, tỉnh lỵ Phú Yên từ 1899 đến
1945.
-Chảy thấu : chảy đến tận… Sầu đâu: Cây sầu đông,
cây soan.
-Câu này ở Nam Bộ là: Nước ròng chảy thấu Nam Vang.
Cầu Tam Giang nhiều nhịp
Em qua không kịp, té xuống cái ầm
Nhờ người quân tử nhắc bồng em lên
Mai sau ăn đặng làm nên
Ơn đền nghĩa trả không quên công chàng
-Cầu Tam Giang: Cầu sông Tam Giang (cầu phía nam)
tại phường Xuân Phú thị xã Sông Cầu, cầu phía bắc là cầu Thị Thạc. Sông Tam
Giang hẹp nên hai cầu đều ngắn.
Ngó ra Vũng Lấm, Sông Cầu
Cù lao Ông Xá đứng hầu ngoài khơi
-Vũng Lấm: Hay Vũng Lắm. Còn có tên Ao Xóm Lưới,
vũng nhỏ trong vịnh Xuân Đài thuộc thôn Tân Thạnh, nay là phường Xuân Đài thị
xã Sông Cầu. Thời Chúa Nguyễn, Vũng Lấm từng là quân cảng, thương cảng. Năm
1888-1889 Tân Thạnh là tỉnh lỵ Phú Yên.
-Sông Cầu: Xưa là
các thôn Long Bình, Long Hải tổng Xuân Bình huyện Đồng Xuân, tỉnh lỵ Phú Yên từ
năm 1899 đến năm 1945. Nay thuộc các phường Xuân Phú, Xuân Yên thị xã
Sông Cầu.
-Cù lao Ông Xá: Cù lao trong vịnh Xuân Đài thị xã
Sông Cầu, nằm đối diện với Vũng Lấm.
Vũng La, vũng Sứ, vũng Chào
Vũng Dông, vũng Lấm… chỗ nào cũng thương
-Đây là các vũng nhỏ nằm trong vịnh Xuân Đài thị xã Sông
Cầu. Chính nhờ có nhiều vũng nhỏ quây quần theo quanh bờ vịnh mà Xuân
Đài là một hải cảng tốt.
Rủ lên Đá Trắng ăn xoài
Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì
-Đá Trắng: Ngôi chùa tại thôn Cần Lương
xã An Dân huyện Tuy An, có tên chữ là chùa Linh Quang, được ban sắc tứ là
chùa Từ Quang. Thời nhà Nguyễn xoài Đá Trắng là xoài tiến.
-Thiên Thai: Ngôi chùa tại thôn Long Phước xã Xuân
Lâm thị xã Sông Cầu. Ngày trước có món tương ngon .
Ngó ra ngoài đảnh Xuân Đài
Thấy hai ông súng nằm dài giữa truông
-Đảnh Xuân Đài: Đỉnh dốc Xuân Đài trên đường thị
xã Sông Cầu vào Tuy An (đường cũ). Thời đầu nhà Nguyễn có đặt các khẩu đại bác
phòng ngự mặt biển, dân gian tôn kính gọi là ông súng. Khi Pháp thuộc các khẩu
súng này bị bỏ phế, hành khách đi qua trông thấy ngậm ngùi.
Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc
Dốc nào ngược bằng dốc Xuân Đài
Đèo cao dốc ngược đường dài
Anh còn qua được huống chi vài lạch sông
-Đèo Phú Cốc: Đoạn đèo trên đường đi qua thôn Phú
Cốc, vùng cận sơn trước thuộc huyện Tuy An. Năm 1949 Phú Cốc nhập nhập với Cự
Liên thành thôn Phú Liên. Nay thôn Phú Liên thuộc xã An Phú thành phố Tuy Hòa.
-Dốc Xuân Đài : Xem đảnh Xuân Đài ở trên.
Chim bay về núi Sơn Chà
Chồng nam vợ bắc ai mà muốn đâu
-Sơn Chà: Núi nhỏ, cây cối thưa và thấp, nằm trong
đồng bằng Sông Cái, thuộc xã An Ninh Tây huyện Tuy An.
Anh về làm rể dưới Đăng
Ăn cơm bát bịt tôm rằn kho tiêu
-Đăng: Xóm ven biển nơi cửa sông Cái,
thôn Phú Sơn xã An Ninh Đông huyện Tuy An, làm nghề đánh bắt cá bằng
đăng. Đặc sản ở đây là tôm rằn. Đời sống dân chúng khá giả, nhiều gia đình giàu
có.
-Bát bịt: Loại chén bát sứ loại quý, có bịt một
vành hợp kim nhỏ màu đồng sáng nơi miệng, vừa tăng vẻ đẹp vừa để giữ gìn cho được
lâu bền hơn.
Anh về làm rể dưới Đăng
Bỏ em kéo vải sáng trăng một mình
-Câu này có lẽ là tâm sự của các cô gái vùng trồng bông
hai bên sông Cái, nay thuộc các xã Xuân Sơn Bắc, Xuân Sơn Nam (huyện Đồng
Xuân), An Định, An Nghiệp (huyện Tuy An), trách chàng trai thích cuộc sống sung
sướng, bỏ vùng nông thôn theo vùng biển giả, để được «ăn cơm bát bịt tôm rằn
kho tiêu».
Chợ
Sen, chợ Giã, chợ Đèo
Chợ
phiên Thành cũ đi theo một đò
-Các
chợ ở đồng bằng và ven biển huyện Tuy An. Chợ Sen (còn gọi chợ Bà Sen) ở thôn Định Trung, chợ Đèo ở
thôn Phong Niên, hai thôn cùng xã An Định, Chợ Giã ở thôn Xuân Phu xã An
Ninh Tây, chợ Thành ở thôn An Thổ xã An Dân. Thời nhà Nguyễn từ triều
Minh Mạng cho đến triều Thành Thái tỉnh thành đóng ở An Thổ nên chợ An Thổ
có tên là chợ Thành. Đây là hành trình của những người buôn bán theo đò dọc từ
sông Kỳ Lộ xuống sông Cái chung một chuyến, về đây mới chia ra đi từng chợ.
Sông
Kỳ Lộ vừa sâu vừa hẹp
Nước
Kỳ Lộ vừa mát vừa trong
Thuyền
anh xuôi ngược dòng sông
Tìm
em cho thỏa tấm lòng nhớ thương
-Sông
Kỳ Lộ: Đọan sông Cái ở tây bắc huyện Đồng Xuân, do suối La Hiên và suối Cà
Tơn hợp dòng. Sông Kỳ Lộ tiếp nhận thêm lượng nước của sông Trà Bương thành
sông Cái chảy qua thị trấn La Hai tiếp nhận thêm sông Cô chảy xuống huyện Tuy
An.
Mau mau đến bến Bà Bang
Đến đồng Bà Sứ thở than đôi lời
-Bến Bà Bang, đồng Bà Sứ: Bến nước
và cánh đồng bên sông Kỳ Lộ. Ngày trước đây là điểm dừng của đò dọc từ hạ
bạn lên, mua bán, đổi chác sản vật. Do đó thành nơi hẹn hò gặp gỡ của bạn bè và
đôi lứa. Không rõ «Bà» là từ gốc Chăm (như Bà Đài, Bà Diễn, Bà Nông…) hay từ chỉ
người phụ nữ ?
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiều chú lính đưa cô tôi về
Cô về chẳng lẽ về không
Ngựa ô đi trước ngựa hồng đi sau
Ngựa ô đi tới Quán Cau
Ngựa hồng thủng thỉnh đi sau Gò Điều
-Quán Cau: Đèo Quán Cau thuộc thôn Mỹ
Phú, chợ Quán Cau thuộc thôn Phong Phú, cùng xã An Hiệp huyện Tuy An, nằm trên
quốc lộ 1A. Đây là nơi trước kia nuôi nhiều ngựa tốt.
-Gò Điều: Xóm thuộc thôn Phú Điềm xã An Hòa huyện
Tuy An, trên quốc lộ 1A, ở phía nam chợ Quán Cau độ cây số.
Ngó ra ngoài mả Cao Biền
Thấy đôi chim liễu đang chuyền nhành mai
Cây oằng vì bởi trái sai
Xa em vì bởi ông mai ít lời
-Mả Cao Biền: Cồn cát cao ở phía đông đầm Ô Loan
thuộc xã An Hải huyện Tuy An.
-Câu sau, có khi đọc xa anh (thay cho xa em) hoặc lắm lời (thay cho
ít lời).
Cao Biền chết
tại Đồng Môn
Trên sơn dưới thủy trời chôn Cao Biền
-Cao Biền: Theo chính sử, Cao Biền là tướng
nhà Đường, làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải (tức An Nam đô hộ phủ) đắp thành Đại La làm
bản doanh (sau vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về đây, đổi là Thăng Long). Theo
dân gian Cao Biền là một thầy Tàu, có tài về địa lý, phong thủy, thường cỡi con
diều giấy đi các nơi trấn ếm nhân tài nước ta. Khi diều bay qua Đồng Môn
nay thuộc xã Án Hải huyện Tuy An thì trời nổi cơn thịnh nộ, gây ra gió to bão lớn,
con diều rớt xuống, Cao Biền bị chôn tại đây. Dấu tích con diều còn nhìn thấy
trong đầm Ô Loan với phần đầu rất rõ, hai cánh đã bị vùi lấp dưới lòng đất giờ
là đồi núi cỏ cây. Trong Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim viết: «Tục lại
truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đế vương, thường cứ cỡi
diều giấy bay đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch.
Những chuyện ấy là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ gì mà tin được».
Ô Loan nước
lặng như tờ
Thương người chí sĩ dựng cờ Cần Vương
Trai bao gối đất nằm sương
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng
-Ô Loan: Đầm nước lợ thuộc huyện Tuy An, nằm chính
giữa và thuộc địa phận các xã An Cư, An Hiệp, An Hòa, An Hải, An Ninh, An Thạch,
thị trấn Chí Thạnh, đứng trên quốc lộ 1A tại đèo Quán Cau nhìn xuống thấy
rất rõ.
-Người chí sĩ dựng cờ Cần Vương: Tức Lê Thành
Phương, thường gọi Tú Phương, người lãnh đạo cuộc chống Pháp tại Phú Yên năm
1885-1887, bị thực dân Pháp và Nam triều xử tử năm 1887.
Anh về làm rể Cào Cào
Ăn cơm bắp đập dọn rào khom lưng
-Cào Cào: Xứ đồng thuộc thôn Phước Hậu xã An Hiệp
huyện Tuy An, nằm phía tây quốc lộ 1A, từ chợ Quán Cau và chợ Phiên Thứ đều có
đường đi lên. Nơi đây ít ruộng,
người dân làm rẫy và đất thổ, ngày trước mức sống thấp, sản phẩm chính là bắp. Người
ta dùng «đá đập» đập vỡ các hạt bắp, sàng dừng thành những mảnh nhỏ bằng hạt gạo, nấu chung với gạo, gọi là cơm bắp. Đá đập có hai viên, viên lớn hình hơi vuông, cạnh độ 2 tấc
rưỡi, 3 tấc, mặt trên bằng phẳng, đặt trong lòng thúng hay
nia, viên nhỏ hình bầu dục, hai mặt bằng phẳng, bỏ một ít hạt bắp lên mặt đá lớn,
dùng đá nhỏ đập cho bể ra, văng xuống thúng nia, hứng lấy mà sàng dừng. Những mảnh
hạt bắp nhỏ ấy gọi là bắp đập.
Ngó ra Hòn Yến ba lần
Thấy anh ở trần trong bụng xót xa
Em muốn lộn về mua lụa đậu ba
May áo cổ giữa đem tra nút vàng
Không ai mà gởi cho chàng
Đêm khuya chàng mặc kẻo cơ hàn nắng mưa
-Hòn Yến: Khối đá nhỏ sát bờ biển thuộc xã An Hòa
huyện Tuy An. Xóm trong bờ thuộc thôn Nhơn Sơn là Xóm Yến, thường gọi tắt là Yến,
chợ tại đây là chợ Yến.
-Lộn về: quay về, trở về. Đậu: chắp lại. Lụa đậu ba là lụa
chắp ba sợi tơ thành một cho chắc.
Hồi nào gạo trắng Quán Cau
Cá thu chợ Yến anh lắc đầu chê hôi
Bây giờ đáng kiếp anh ơi
Một phần khoai hai phần đỗ anh thôi kén lừa
Ngó lên dốc Mụt chùa Lầu
Cảm thương người bạn buổi đầu thâm ân
Kể từ qua lại mấy lần
Nào ai khỏa lấp sông Ngân suối Vàng
Ngẫm
trong kim cổ kỳ quan
Bước
vô vườn liễu bông hoa tàn vì ai
Nhìn
xem nguyệt xế non đoài
Bóng
trăng lờ lợt biết ai nương cùng
Tận
xưa rày nhơn nghĩa bịt bùng
Xuống
lên không đặng tỏ cùng anh hay
Mưu
kia kế nọ ai bày
Làm
cho chàng thiếp mỗi ngày mỗi xa
-Chùa
Lầu: Từ quốc lộ 1A tại thôn Mỹ Phú xã An Hiệp huyện Tuy An đi lên phía tây,
qua Chợ Thứ, chợ Lẫm đến chùa Lầu, tên chữ là Phước Lâm tự thuộc thôn Tuy Dương
xã An Hiệp.
-Dốc
Mụt: Dốc nằm phía sau Chùa Lầu khoảng 50m, hai bên dốc có những mô đất nhỏ
giống mụt măng tre nên có tên này. Cũng có người gọi là dốc Một (?).
Ngó
ra Hòn Dứa tăm tăm
Thấy
anh kéo lưới bịt khăn đầu rìu
Thương
anh em cũng muốn liều
Sợ
vì một nỗi sớm chiều buồn tênh
-Hòn
Dứa: Đảo nhỏ, gần bờ, thuộc thôn Mỹ Quang xã An Chấn, gần đó có Hòn Chùa,
Hòn Than, từ Mỹ Quang và Long Thủy nhìn ra đều trông thấy rất rõ.
Chim
kêu dưới suối Chà Rang
Anh
đi làm rể xa đàng dỡ cơm
-Suối
Chà Rang: Tại xã An Hiệp huyện Tuy An có núi Chà Rang, là căn cứ của Châu
Văn Tiếp khi từ Bình Định kéo quân vô theo Nguyễn Vương. Việt
Nam sử lược của Trần Trọng Kim viết theo chữ Hán là Trà Lang. Phải chăng suối
Chà Rang ở tại núi Chà Rang (Trà Lang) này?
Nước
mắm ngon dằm con cá gúng
Để
anh về Bàu Súng mua rau
-Bàu
Súng: Bàu nước ngọt thuộc thôn Phú Long xã An Mỹ huyện Tuy An, có nhiều cá
ngon. Chợ Phú Long ngày trước mang tên chợ Bàu Súng, nay theo tên xã là chợ An
Mỹ.
Lấy
chồng Phú Cốc sợ beo
Lấy
chồng Mỹ Á hồn treo cột buồm
-Mỹ
Á: Làng ven biền, còn có tên là Long Thủy, thuộc xã An Phú thành phố Tuy
Hòa, ở phía bắc
trung tâm thành phố cách 15km, ở phía đông quốc lộ 1A cách độ vài cây số. Khí hậu tốt.
Sản phẩm ở đây là cá, mắm, nước mắm và dừa.
Đèo
nào cao bằng đèo Phú Cốc
Dốc
nào ngược bằng dốc Lỗ Chài
Đèo
cao dốc ngược trong ngoài
Anh
còn qua được huống chi vài đường truông
-Lỗ
Chài: Dốc khá dài trên đường núi từ xã Hòa Quang Bắc huyện Phú Hòa qua xã
An Thọ huyện Tuy An lên xã Sơn Long huyện Sơn Hòa. Đường đi nhiều đoạn quanh co
nên có câu: Dốc Lỗ Chài mười hai cái quẹo.
Muốn
về Mỹ Á ăn dừa
Sợ
con sóng lớn nó đừa lộn ra
-Đừa:
Đẩy mạnh, có ý không thích, không ưng thuận. Tùy theo vị trí, có khi nói là “đừa
lộn vô”.
Anh
về Mỹ Á chi lâu
Để
em ôm chiếc thuyền câu một mình
Anh
ngồi đầm Ô
Ngó
vô cửa Mỹ
Thấy
miệng em cười mủ mỉ anh thương
Ngọn
trầu bò dưới đất là ngọn trầu lương
Hồi
này mới biết nẫu không thương mình rồi
Đêm
năm canh không ngủ còn ngồi
Bởi chưng thương bạn bồi hồi ruột gan
-Đầm
Ô: đầm Ô Loan.
-Cửa
Mỹ: cửa Mỹ Á.
Ma Liên là
ma liên tiên
Đi chợ đem tiền có kẻ theo bưng
Bán rồi bỏ nước xem chừng
Tiền nổi thì chớ chỉ ưng tiền chìm
-Ma Liên: Thôn ven biển, còn có tên Mỹ Quang, thuộc
xã An Chấn huyện Tuy An, giáp phía bắc Mỹ Á, nên người ta thường nói chung «Mỹ
Á – Ma Liên» cũng như «Phú Điền – Phú Cốc»… Tương truyền nơi đây ngày xưa có chợ chung cho hai cõi âm dương. Các phu nhân cõi âm đi
chợ có người hầu bưng rổ tiền. Những người bán hàng đặt sắn chậu nước một bên,
khi nhận tiền bỏ vào thử, tiền chìm là tiền dương, nhận lấy, tiền nổi là tiền
âm, nên từ chối, vì sau khi đem về nhà sẽ hóa thành tờ vàng mã hoặc giấy
in tiền ta đốt khi cúng.
Chóp Chài đội
mũ
Mây phủ Đá Bia
Ếch nhái kêu kia
Trời mưa như đổ
(Một bản khác, tiếp theo là các câu sau đây)
Thân em nghèo khổ
Tìm chỗ sang giàu
Khác nào Lưu Bị đi cầu Khổng Minh
-Chóp Chài: Tên chữ là Nựu Sơn. Núi tại trung
tâm thành phố Tuy Hòa, sát bên đường Nguyễn Tất Thành (đoạn quốc lộ 1A cũ đi
qua nội thành Tuy Hòa). Có nhiều liên hệ mật thiết với dân chúng tại đây.
-Đá Bia: Tên chữ là Thạch Bi Sơn. Núi ở xã Hòa Tâm
góc đông nam huyện Đông Hòa, thuộc dãy Đèo Cả, có nhiều giai thoại lịch sử .
-Lưu Bị: Có tên là Lưu Huyền Đức, tôn thất nhà
Hán, kết nghĩa anh em với Quan Vân Trường và Trương Phi, làm vua Tây Thục thời
Tam Quốc, chống đối Tào Tháo và Tôn Quyền.
-Khổng Minh : Quân sư của Lưu Bị. Lưu Bị phải
khổ công cầu hiền mới mời được Khổng Minh.
Mai sau mượn ngọn Chóp Chài
Làm bia chiến sĩ cho người xa trông
-Tác giả là nhà thơ Nhật Tĩnh, viết nhiều ca dao phổ biến
rộng rãi trong thời gian 1946-1949, nay nhiều người còn nhớ,
Lẻ loi như cụm Núi Sầm
Thảnh nhiên như mặt nước đầm
Ô Loan
-Núi Sầm: Một ngọn đồi nhỏ, thấp tại thôn Phụng Tường
1 xã Hòa Trị huyện Phú Hòa, thời chiến tranh thường có đồn quân. Câu này phổ biến
từ năm 1946 đến nay, có người nói tác giả là nhà thơ Nhật Tĩnh (Nguyễn Trọng
Thuật), có người nói là của nhà giáo Đà Giang (Trần Sĩ).
Lập lòe trời chớp Vũng Rô
Mây che Hòn Yến gió vô Chóp Chài
-Vũng Rô : Vũng biển ở xã Hòa Tâm góc đông nam huyện Đông
Hòa, dưới chân Đèo Cả. Chữ Hán viết là Ô Sô đàm. Cũng gọi là vũng Ô Rô, các nhà
nho dùng câu «Xô cô vô Ô Rô» hạn vận khi xướng họa Đường luật.
Ngọn Chóp Chài cao lắm bấy
Trông hũy trông hoài chẳng thấy người thương
Hay là lưu lạc hà phương?
Hay là liệt chiếu liệt giường nơi đâu?
Giả đò dạo xóm mua dầu
Hỏi thăm người bạn nhức đầu nhẹ chưa?
Phù Già dậy
giặc thình lình
Hời kia còn có tháp Dinh rõ ràng
-Phù Già: Tức Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh, người
nhận lệnh Chúa Nguyễn Hoàng bạt phá Thành Hồ (nay thuộc xã Hòa Định Đông huyện
Phú Hòa) năm 1578 và đưa lưu dân vào lập nghiệp tại Phú Yên năm 1597.
Nước còn non cũng còn đây
Tháp còn sao lại người xây không còn?
-Lòng cám cảnh của quần chúng khi đứng
nhìn Tháp Nhạn nghĩ đến người xưa xây tháp. Ai? Vào đời nào? Bây giờ anh linh họ
ở đâu?
Sông Dinh ai bới
ai đào
Để cho con nước chảy vào vòng cung
-Sông Dinh: Nội thành Tuy Hòa trước năm 1945 có
tên là Dinh. Sông Dinh là phụ lưu nhỏ chảy qua đây, nhập vào sông Chùa, khoảng
rạp Hưng Đạo (phường 3), nay đã tắt dòng, không còn dấu vết gì, chỉ nghe những
lời truyền. Các câu dưới đây đều nói về sông Dinh này.
Nước
nào trong bằng nước sông Dinh
Đố
ai ăn ở chung tình bằng em?
Cũng
vì ngọn nước sông Dinh
Nay
trừng mai rặt điệu chung tình nổi trôi
-Trừng:
nước
lên theo thủy triều, nước lớn. - Rặt: nước xuống, nước rút.
Nước
nào ngon bằng nước sông Dinh
Trà
ô long đủ vị súc bình còn thơm
Đố
anh con rít mấy chưn
Cầu
Ô mấy nhịp chợ Dinh mấy người
-Chợ
Dinh: Tên xưa của chợ Tuy Hòa, thuộc làng Năng Tịnh tổng Hòa Bình phủ Tuy
Hòa, ngay phía trước đình Năng Tịnh, hướng nam, gần sông Chùa, gần núi Nhạn
Tháp. Sau gọi là chợ Năng Tịnh. Năm 1954 dời đến khu đất nằm giữa 4 con đường
Trần Hưng Đạo (đường số 2) – Phan Đình Phùng (đường Phủ Cũ) – Lê Thánh Tôn (đường
số 3) – Cao Thắng, và ngay trên đường Phan Bội Châu hiện nay (lúc ấy chưa
thành đường), thuộc phường 1. Rồi dời xuống chỗ hiện nay nằm giữa 4 con đường
Trần Hưng Đạo – Lương Văn Chánh – Lê Lợi – Nguyễn Trãi, thuộc phường 4, gọi là
chợ trung tâm thành phố Tuy Hòa. Phía tây nam chợ Dinh có một bia Chăm khắc
trên đá núi Nhạn Tháp, các nhà khảo cổ gọi là bia Chợ Dinh.
Đỗi
đàng ở dưới lên đây
Tôi
không biết thứ chị em bày tôi kêu
Gá
lời kêu chị Bốn, chị Ba
Chị
Năm, chị Sáu bỏ giọng qua cho đều
Chợ
phiên Dinh nẫu họp buổi chiều
Cũng
lắm người bán cũng nhiều người mua
(Câu
cuối có bản khác)
Nào
ai có bỏ hàng lều ở không
-Đỗi
đàng: Đi một đoạn đường xa,đi mất thời gian khá lâu. Một đỗi là một lúc
lâu.
-Chợ
Phiên Dinh: Tức Chợ Dinh nói trên. Họp hàng ngày, nhưng mỗi tháng có 3 ngày
phiên là mồng 4, 14, 24 người buôn bán từ các vùng xa cùng đến, đông đảo hơn rất
nhiều.
Ngó
lên chùa Cát cao lầu
Biệt
ly em hỡi để sầu cho anh
Sầu
này không biết sầu ai
Cơm
ăn không đặng đã hai tháng trời
-Chùa
Cát: Tên chữ là chùa Bảo Tịnh (Bửu Tịnh) tại phường 2 thành phố Tuy Hòa. Chùa được Tổ
Liễu Quán đời thứ 35 phái Lâm Tế khai sơn từ cuối thế kỉ thứ XVII. Các tổ kế thừa
tiếp theo là: Hòa thượng Khánh Viên (Tế Hẩu), Hòa thượng Hưng Long (Đại Càn).
Chùa có đại hồng chung cao 1,2m, đường kính 0,8m do An Nam Phật học hội Tuy Hòa
đúc năm 1944. Chùa được trùng tu năm 1963, hiện nay đã phá và đang xây dựng lại
(2010-2011).
Muốn
ăn hột nếp Vườn Trầu
Sợ
e tát nước giở gàu không lên
-Vườn
Trầu: Cánh đồng thuộc thôn Liên Trì xã Bình Kiến thành phố Tuy Hòa, có các
loại nếp rất ngon, như nếp chân bàu, nếp sục sạc (sột soạt?), nếp tượng.
Anh
về Thọ Vức
Bứt
củ roi mây
Lùa
trâu xuống ruộng anh cày
Đôi
ta cày cấy đợi ngày ấm no
-Thọ
Vức: Thôn thuộc xã Hòa Kiến thành phố Tuy Hòa. Tên xưa là Thanh Vực,
sau đổi là Thọ Vực và quen gọi Thọ Vức. Đây là vùng cận sơn, gần giáp chân núi
đường qua huyện Tuy An lên huyện Sơn Hòa.
-Củ
roi mây: Lúc cày bừa phải dùng cây roi dài để điều khiển trâu bò. Cán roi
là một cành tre nhỏ, cứng, ngọn roi là một đoạn mây rắt, đào lấy cả củ, chắp
vào, củ mây ở đầu roi, gọi là roi củ.
Muốn
về Soi Bún ăn dưa
Sợ
e Soi Bún đãi đưa nhiều lời
-Soi
Bún: Còn gọi là Soi Búng, vùng đất soi nằm giữa sông Chùa và sông Đà Rằng,
thôn Ngọc Lãng xã Bình Ngọc thành phố Tuy Hòa. (Xem bài Muốn
về Soi Bún ăn dưa phần 2)
Sơn
Triều nhiều ruộng nhiều cau
Để
cho chị Bốn làm dâu Sơn Triều
Làm dâu coi trước coi sau
Coi nhà mấy cột coi cau mấy hàng
(Câu đầu có bản khác)
Sơn Triều nhiều
ruộng nhiều trâu
-Sơn Triều: Làng nông nghiệp thuộc xã Hòa Kiến thành phố Tuy Hòa, từ xưa
đã vào hàng trù phú, có chợ Sơn Triều là nơi trung chuyển hàng hóa giữa vùng đồng
bằng Tuy Hòa và cao nguyên Vân Hòa huyện Sơn Hòa. Sơn Triều nhiều ruộng, ngày trước nhiều vườn trầu cau.
Cũng nuôi nhiều trâu. Dị bản câu cuối có ý nói rằng đây là vùng giàu, “ruộng
sâu trâu bầy”. “Coi nhà mấy cột, coi cau mấy hàng”, cột nhà không lẽ ai đến dỡ
đi, cau vườn không lẽ ai đến chặt đi, mà có nghĩa là bổn phận người phụ nữ ở
đây lo quán xuyến gia đình, “coi trước coi sau” từ trong ra ngoài, từ nhà cửa đến
vườn tược, chứ không phải vất vả chân lấm tay bùn. Bởi vậy mới mong “chị Bốn
làm dâu Sơn Triều”.
TRẦN HUIỀN ÂN
(Còn 1 kỳ nữa)
(Còn 1 kỳ nữa)