TRẦN
HOÀI THƯ
Trần
Thiện Đạo:
Khi nghĩa tử không là nghĩa tận...
Khi nghĩa tử không là nghĩa tận...
Tháng
8 năm 1967, bản dịch vở kịch “Những Ruồi” của J.P. Sartre do Phùng Thăng dịch
được Thanh Hiên xuất bản. Đọc trên bìa ghi những tác phẩm sẽ xuất bản, chúng ta
thấy Thanh Hiên là một nhà xuất bản chuyên trọng về lĩnh vực văn học và tư
tưởng triết học. Các tác giả mà Thanh Hiên quảng cáo sắp in là Camus, J.P. Sartre,
Nietzsche, Anderson, Tổ Quy Ngưỡng, Hermann Hesse, Sigmund Freud, Martin
Heidegger, Chơn Hạnh, Phạm Công Thiện, Bửu Đích, Tuệ Sỹ, Nguyễn Nguyên Phương.
Riêng về tác phẩm Phùng Thăng sắp in ngoài bản dịch Thế Giới Thiền của Nancy Wilson Ross, Buồn Nôn của J. P. Sartre, Con
sói miền hoang nguyên (sau này đổi thành Sói đồng hoang – dịch chung với Chơn Hạnh) của Hermann Hesse, “Thư cho Tiểu Phượng”, một tuyển tập bốn
tác giả: Linh Thoại, Phùng Thăng, Nhất Kiếm, Thiên Tứ (Tiểu Phượng là tên con
gái đầu lòng của Phùng Thăng) ta thấy bà còn có thêm 2 tác phẩm triết luận là Theo Dấu Tình Yêu và Chỉnh Lý Tư Tưởng Tây Phương… Điều này chứng tỏ ngoài khả năng dịch giả, bà
còn là nhà tư tưởng triết học dù lúc ấy bà mới ngoài 20.
Sự
xuất hiện của những cây bút đầy trí tuệ như Tuệ Sỹ, Phạm Công Thiện, Chơn Hạnh,
Phùng Thăng, Bửu Ý, Nguyễn Nguyên Phương... khi tuổi trung bình của họ 23, 24
tuổi trên trang bìa của Thanh Hiên đã khiến người đọc có cái nhìn lạc quan về
nền văn học nghệ thuật miền Nam đặc biệt trong bộ môn dịch thuật và tư tưởng
triết học vào cuối thập niên năm 60.
Thanh Hiên và tác phẩm đầu tiên cảnh
báo về một hiểm họa: Những Ruồi
Năm 1967, cường độ cuộc chiến khốc liệt hơn bao giờ.
Bấy giờ, quân đội đồng minh đã có mặt. Những trận đánh có
tính cách quy mô và trận địa chiến. Sự thiệt hại về nhân mạng gia tăng theo tầm
sát hại của những vũ khí tối tân hiện đại. Lính Bắc chết không thể mang xác về
quê. Lính Nam tử trận cũng khó lấy xác ngay vì mặt trận vẫn còn tiếp diễn hàng
tuần. Bọ giòi thì nhung nhúc, những bầy kên kên thì bay trên đầu, lẫn với lũ
quạ kêu kháo nhau vang động cả rừng. Nhất là vào mùa hè, mùi thúi xác người bốc
lan khắp cả khu vực đến lợm mửa.
Loài ruồi sản sinh rất nhanh. Cứ nhìn vào những đống giòi bọ
lúc nhúc mới thấy sức sản sinh khủng khiếp của chúng. Có loại ruồi hai mắt đỏ
máu, mình mẩy xanh kim loại, có khi màu vàng kim, có khi màu đen... Trên một
thi thể có khi không thấy da thịt mà chỉ thấy cả một lớp ruồi nhặng bu đặc cứng…
Thêm vào đó, chúng là loài vật có khả năng bay rất nhanh và xa. Có thể ngày hôm
trước chúng rúc rỉa xác chết, thì ngày hôm sau chúng có mặt trên mâm cỗ, mâm
thịt cá ê hề. Ai biết?
Hình dưới đây là cảnh ruồi chết. Nó chẳng khác gì trong
“những ruồi” mà Phùng Thăng dịch sau đây:
“- Anh hiểu chứ? Những con vật nhỏ ấy
chết đi hằng triệu mỗi ngày. Nếu người ta thả lỏng qua thành phố tất cả những
ruồi đã chết từ dạo hè năm ngoái, thì sẽ có đến ba trăm sáu mươi lăm con ruồi
chết cho một người sống, đến xoay tròn chung quanh chúng ta. Gớm! Không khí sẽ
ngọt những ruồi, người ta sẽ ăn ruồi, thở ruồi, chúng sẽ chảy xuống bằng những
đợt lầy nhầy trong khí đạo và trong ruột chúng ta... Có lẽ vì thế mà tôi nghe
trong phòng nầy thoang thoảng những mùi vị rất đặc biệt.”
(Những Ruồi – trang 84)
Cảnh
tượng những đàn ruồi của thành Argos trong thần thoại Hy Lạp xa xưa và cảnh
tượng những đàn ruồi sản sinh từ cuộc chiến tranh khốc liệt tại miền Nam vẫn là
một, chẳng khác.
Chỉ
khác chăng là những đàn ruồi của thành Argos đã bị dẹp bởi Oreste. Còn ở miền
Nam thì ngược lại, chiến tranh mỗi lúc một leo thang, ruồi càng lúc càng được
mùa, càng béo bở.
Oreste vẫn ngủ yên, không thức dậy như Phùng Thăng mong mỏi:
Oreste vẫn ngủ yên, không thức dậy như Phùng Thăng mong mỏi:
Roquentin và Oreste là những nhân vật đang ngủ yên chờ giờ thức
dậy nơi mỗi người trong chúng ta.
(Phùng Thăng, giới thiệu bản dịch “Những Ruồi”, trang 4)
(Phùng Thăng, giới thiệu bản dịch “Những Ruồi”, trang 4)
Khi “Những Ruồi” bị tập kích
Chỉ
khoảng một tháng sau khi Những Ruồi
được phát hành thì bị Trần Thiện Đạo (TTĐ) dùng nguyệt san Văn để “phang” nặng
nề qua bài viết Tìm hiểu vở kịch Les
Mouches của Jean-Paul Sartre (nhân đọc bản dịch của Phùng Thăng) . Bài đăng
hai kỳ trên nguyệt san Văn tháng 11, tháng 12, dày tất cả khoảng 50 trang, khổ
chữ nhỏ. Bài được người viết ghi là hoàn tất vào cuối tháng 9/1967.
Đặc biệt, kỳ 2 ông dành trọn bài để “phang” Những Ruồi: Nào là “một cái kho chất chứa chật ních và đầy đủ hết mọi lỗi lầm trong phép dịch văn”, “bản dịch vừa phản vừa diệt”, “khinh thường độc giả và miệt thị giới phê bình tới độ ấy”, “dịch chữ không dịch tinh thần câu văn”, cắt bỏ không dịch”, “cái giọng đặc Tây”, ngớ ngẩn”, chối tai”, “một thứ giấy khống chỉ…”, “cẩu thả”, “sai bét”, “ngờ vực cái vốn liếng Pháp Ngữ”, “không giữ tánh cách Việt Nam”, “vô nghĩa”, “thiếu nghĩa”, “tối nghĩa”,”lòng thòng”, “dịch ẩu”, “dịch càn”, “sai cả mẹo luật tiếng Việt Nam”, “lối dịch đầu-gà-đít-vịt” , “chưa lãnh hội thấu đáo mẹo luật Pháp” v.v... Ông xả tiểu liên trung liên AK, M16, B40. Ông tấn công đủ mặt, từ trang đầu đến trang cuối… Vây chặt, càng vây càng pháo...
Có điều ngạc nhiên là chẳng thấy một
nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ hay phê bình nào thời ấy động lòng trắc ẩn lên
tiếng bênh vực Phùng Thăng!
Rồi
sau năm 1975, cứ ngỡ rằng chuyện cũ đã qua, hai cuốn Văn phát hành vào cuối năm
1967 nằm dưới huyệt mồ, Những Ruồi
cũng nằm rã xác cùng tro bụi trong huyệt mồ vĩ đại phần thư của Tần Thủy Hoàng
tái sinh. Cứ ngỡ rằng cái chết thảm khốc
của chủ của nó cùng với con gái, búa hay cuốc báng vào sọ, như chứng từ của
những người dân Miên về tội ác khủng khiếp của bọn quỷ Pol Pot trong tòa án tội
phạm chiến tranh đã xem như đi vào cõi lãng quên… Cứ ngỡ rằng Phùng Thăng đã
chọn được thiên đàng trong địa ngục. Cứ ngỡ rằng bé Tiểu Phượng cũng đã chọn
được một vòng tay của mẹ ôm chặt không rời trước khi bé hét mẹ ơi… Cứ ngỡ Phùng
Thăng đã tha thứ kẻ phỉ nhổ mình vì Phùng Thăng là mẹ, một mẹ Phùng Thăng như
Bùi Giáng đã hết lòng tôn kính, thay vì cầm cuống hoa huệ hoa sen để bay lên
trời, để tiêu diêu miền cực lạc, lại ôm chặt lấy con sợ con phải bơ vơ làm ma
trẻ lạc loài, để đứng trên bờ biển Đông mà chịu tội thế cho cả miền Nam lao vào
cơn đại hồng thủy. Cứ ngỡ những gì quá sức thảm khốc mà Phùng Thăng đã trả cho
một kiếp làm người VN cũng đã đánh động một chút lương tri của những kẻ từng
phê phán bà hầu hương hồn bà được thảnh thơi siêu thoát, nếu chúng ta tin có một
cõi gì khác bên kia thế giới…
Tiếng sóng ru con
Tranh Thanh Trí
Phùng Thăng và con gái - bé Tiểu Phượng
Ảnh chụp năm 1968
Vậy
mà ông TTĐ chẳng chịu buông tha. Năm 2001, ông là kẻ đào huyệt, khai quật để bới đào cuốn Những Ruồi mà năm 1967 ông đã phang tơi
tả thậm tệ trên tạp chí Văn. Ông sửa chữa lại chút đỉnh rồi bỏ vào tác phẩm “Từ Chủ Nghĩa Hiện Sinh Tới
Thuyết Cấu Trúc” dưới tựa: “Đọc bản dịch
Những Ruồi của Phùng Thăng” và
giao cho nhà xuất bản Văn Học ở Hà Nội xuất bản và phát hành. Bảy năm sau ông
lại giao cho nhà xuất bản Trí Thức tái bản lần nữa. Sách của ông được bày trong
tủ sách gia đình, được dùng làm tài liệu tham khảo cho các vị làm luận án thạc
sĩ, tiến sĩ về chủ thuyết hiện sinh. (**)
Đây
là bằng chứng ba lần tập kích:
Lần
tập kích thứ I trên nguyệt san Văn số 1 & 2 tháng 11, 12 năm 1967:
Lần thứ hai, trên cuốn sách nhan đề từ Chủ
Nghĩa Hiện Sinh tới Thuyết Cấu trúc do nhà xb Văn Học xuất bản năm 2001:
Thừa
thắng xông lên ông đánh lần thứ ba (nxb Trí Thức, 2008)
Ngày
xưa, thời Thịnh Đường, Vương Bột (650–676) trên đường vượt biển từ Trung Quốc về Giao Chỉ
thăm cha, chẳng may thuyền gặp sóng to gió lớn, phải chết chìm. Xác tấp vào bờ,
dân địa phương lập miếu thờ đàng hoàng tử tế để chứng tỏ lòng biết ơn và thương
tiếc đối với tác giả Đằng Vân Các Tự của người Việt Giao Chỉ. Ngay trong thời chiến tranh Nam Bắc, dù khi
còn sống là địch là thù, nhưng khi những người lính Bắc tử trận, chúng tôi vẫn
chôn cất tử tế, mong rằng hương hồn họ được siêu thoát. Nhưng đàng này thì
ngược lại: trong văn học sử Việt Nam chỉ có ông Trần Thiện Đạo là mang cái dao
cái búa mà tiếp tục đập, phang, chém đứa con tinh thần của người đã khuất bóng.
Ông ta muốn chứng minh chủ thuyết mới: Chết là không hết. Nghĩa tử không là nghĩa
tận!
Sách
của ông bán chạy. Trong tương lai, chắc ông sẽ tái bản nhiều lần nữa. Vì cuốn
sách được ca ngợi xưng tụng hết mình: “Dịch
giả Trần Thiện Đạo - Người đồng hành với sự hoàn mỹ của việc dịch thuật”
(trên đài Tiếng Nói Việt Nam 17-3-2012), được một số trang Mạng đăng lại. Nào
là phê bình gia nhận định gia Thụy Khuê phỏng vấn ông về vai trò, chức năng,
quan niệm của Trần Thiện Đạo về dịch thuật...
Chỉ có một mình chủ blog Nhị Linh là dám chê TTĐ: “Trần Thiện Đạo kém Phùng Thăng quá, quá xa, đến mức không thể so sánh được.” (Chúng tôi sẽ triển khai sau)
Nói
tóm lại, hầu hết xem Trần Thiện Đạo là một dịch giả có uy tín, một bậc thầy về
thẩm định dịch thuật, một là TTĐ nói, hai là TTĐ nghĩ, ba là TTĐ tuyên bố...
Và đây là lý do chính để tôi viết bài này. Tôi không thể để ông TTĐ tiếp tục đánh thêm Phùng Thăng khi bà đã chết. Dù tôi nghĩ rằng rồi cũng có ngày ông TTĐ sẽ có dịp gặp Phùng Thăng và sẽ trả lời với Phùng Thăng ở bên kia thế giới!
Khả năng Việt ngữ của Trần
Thiện Đạo
Khả
năng dịch thuật của TTĐ được Nhị Linh (tức Cao Việt Dũng sinh năm 1980) nhận
định như sau:
“Trần Thiện Đạo kém Phùng Thăng quá, quá xa, đến mức không thể
so sánh được.
Trần Thiện Đạo rành tiếng Pháp, nhưng là một thứ tiếng Pháp máy móc, không có gì đặc biệt, và nhất là, Trần Thiện Đạo có một thứ tiếng Việt của trẻ con học đòi làm người lớn. Khi dịch Le Petit Prince, Trần Thiện Đạo chính là người nhầm Đại Tây Dương thành Thái Bình Dương, không những thế còn tạo ra một cụm từ theo tôi là đỉnh cao của lịch sử dịch thuật lẫn lịch sử dùng từ của Việt Nam: "tể tướng bộ tư pháp". Ngoài đó ra, ở các bản dịch khác, Trần Thiện Đạo cũng thế. Nhưng mấy điều này, theo tôi chẳng quan trọng mấy, quan trọng nhất là, Trần Thiện Đạo tạo ra một mẫu hình tuyệt vời cho sự nhất thiết phải tránh ở dịch thuật: không biết tiếng Việt nhưng lại rất to mồm. Và Trần Thiện Đạo cũng là điển hình cho một nhóm: trí thức của các diaspora Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt về "nhóm Paris", tả hay hữu, tôi có nhiều điều để nói lắm, nhiều lắm lắm.”
Trần Thiện Đạo rành tiếng Pháp, nhưng là một thứ tiếng Pháp máy móc, không có gì đặc biệt, và nhất là, Trần Thiện Đạo có một thứ tiếng Việt của trẻ con học đòi làm người lớn. Khi dịch Le Petit Prince, Trần Thiện Đạo chính là người nhầm Đại Tây Dương thành Thái Bình Dương, không những thế còn tạo ra một cụm từ theo tôi là đỉnh cao của lịch sử dịch thuật lẫn lịch sử dùng từ của Việt Nam: "tể tướng bộ tư pháp". Ngoài đó ra, ở các bản dịch khác, Trần Thiện Đạo cũng thế. Nhưng mấy điều này, theo tôi chẳng quan trọng mấy, quan trọng nhất là, Trần Thiện Đạo tạo ra một mẫu hình tuyệt vời cho sự nhất thiết phải tránh ở dịch thuật: không biết tiếng Việt nhưng lại rất to mồm. Và Trần Thiện Đạo cũng là điển hình cho một nhóm: trí thức của các diaspora Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt về "nhóm Paris", tả hay hữu, tôi có nhiều điều để nói lắm, nhiều lắm lắm.”
(Nhị Linh: Văn chương miền Nam: Phùng Thăng, nguồn: http://nhilinhblog.blogspot.com/)
Đấy, giữa lúc thiên hạ nô nức khen ngợi TTĐ thì chỉ có Nhị
Linh lại bênh vực Phùng Thăng, dám trả lại sự thật cho người đã khuất. Xin nhớ
rẳng Nhị Linh sinh năm 1980.
Riêng tôi, bằng chứng về khả năng Việt ngữ của TTĐ, thì tôi
có đây, nhiều lắm. Chỉ đưa ra vài ví dụ điển hình. Đó là
TTĐ dịch chữ Littérature là “văn nghệ” trong khi bất cứ một học sinh
trung học nào cũng biết nghĩa của nó là văn chương, văn học. Văn
chương và văn nghệ khác nhau một trời một vực!
Không
ai ngu gì mà dịch Prix Nobel de littérature là “giải Nobel văn nghệ” hay
littérature vietnamienne là “văn nghệ Việt Nam”!!!
Còn
một chữ rất căn bản khác. Đó là chữ “les”. Ông dịch là “mấy”!
Khủng khiếp hơn là ông dùng cái cụm từ “đa cậu”, “nhà chổng đít”... để dạy Phùng Thăng là “phải giữ tánh cách VN”!!!
(Chúng
tôi sẽ bàn rõ sau).
Đây
là bằng chứng TTĐ dịch: Que peut la littérature ?: văn nghệ có thế lực gì? ((nguồn
Văn số 78 năm 1967 chủ đề Simone de Beauvoir)
Không
ai tự cho mình là người dịch giả toàn hảo, bởi kẻ ấy không phải là tác giả.
Cũng chưa hề có dịch giả nào lại đi chê tác giả (chúng tôi sẽ nói sau). Vấn đề chính là dịch làm sao để người đọc hiểu,
và cảm thấy hợp lý hay không. Dù khả năng ngoại ngữ siêu đẳng cách mấy
nhưng dịch chữ littérature là văn
nghệ hay Đại Tây Dương thành Thái Bình
Dương hoặc “tể tướng bộ Tư Pháp” như chủ Blog Nhị Linh đã đưa ra, thì cũng khó
mà mang cho độc giả một chút gì tin cậy vào khả năng Việt ngữ của dịch giả.
Có người sẽ hỏi: Tại sao Phùng Thăng lại không lên
tiếng?
Xin hỏi lại: Lên tiếng ở đâu, trong khi Văn ở trong
tay ông TTĐ, ông ta một mình một cõi tung hoành?
Hơn nữa, Phùng Thăng không phải là “típ” người ưa
xông xáo, tranh luận. Bà là một mẫu người mà người bạn học cũ là Thái Kim Lan
nhận định:
“Chị lặng lẽ đến như thế ấy. Lặng lẽ
như tôi đã nhiều lần giật mình khi thoạt nhìn. Lặng lẽ đi và đến, ngồi ở thế
gian giây phút rồi bỏ đi. Bóng áo trắng thấp thoáng sẽ sàng không gây tiếng
động, đến nỗi khi cố tìm lại chị trong ký ức, tôi có cảm giác e dè sợ kinh động
sự lặng lẽ ấy, sợ sẽ tan biến đi hình hài trong ký
ức đẹp nhất về một con người...”
(Thái
Kim Lan: Nhớ Phùng Thăng, TQBT số 59)
Nếu mà ông TTĐ gặp cỡ Nguyễn thị Thụy Vũ, Túy Hồng,
Nhã Ca thì chắc phải từ chết đến bị thương cũng không biết chừng. Nội cái câu
phê bình gái Huế của Trần Phong Giao mà Nhã Ca, Túy Hồng làm dữ đến nỗi ông
Trần Phong Giao phải lên tiếng công khai xin lỗi (xin xem TQBT số 61 chủ đề
Hiện tượng văn chương nữ giới viết rõ về vụ này) hay một bài viết của N.T.Thụy
Vũ nhằm biện hộ tại sao phụ nữ làm nghệ thuật khiến những vị phê bình gia thủ
cựu phải tá hỏa:
...Đàn bà vốn là cái xương sườn của
đàn ông. Nếu Chúa lấy một phần bộ óc của Adam và nấu thành bà Eve thì có lẽ
hiện thời đàn bà thông minh hơn đàn ông. Đằng này Chúa lại lấy cái xương sườn.
Hèn chi đàn bà ưa nói xốc hông đàn ông, và khi các bà nổi cơn ghen tuông, các
bà nói nhiều câu động trời các ông tức bể cả phổi, tức ê ẩm cả xương sườn lồng
ngực. Đấy nhé! Hỡi những chiếc xương sườn của đàn ông ở mọi lãnh vực, nhất là
lãnh vực nghệ thuật. Chúng ta phải làm cho họ có một mặc cảm tự tôn và chuyện
đòi hỏi vấn đề bình quyền với đàn ông là thuộc về huyền thoại hẳn hoi rồi.
(Nguyễn thị Thụy Vũ: Khi người phụ nữ làm nghệ thuật. Nguồn: TQBT số 61)
(Nguyễn thị Thụy Vũ: Khi người phụ nữ làm nghệ thuật. Nguồn: TQBT số 61)
Một điều rất ngạc nhiên, có một người nữa mà ông
không đụng, không hề nhắc nhở, không
biết vì lý do gì, dù người ấy đã phạm lỗi lầm rất quan trọng khi dịch tác phẩm Les Mouches của J.P. Sartre. Đó là
dịch giả Châu Diên. Sách in năm 1989,
với 20 ngàn ấn bản được phát hành.
Trong Ruồi của Châu Diên, dịch giả đã cho Oreste đóng vai anh ruột của Électre, trong khi ai đọc chuyện thần thoại Hy Lạp đều biết Oreste là em trai của Électre.
Với cái nhầm lẫn hết sức quan trọng như vậy, mà ông
TTĐ không hề lên tiếng phê phán. Để 20 ngàn ấn bản bán sạch trong khi Những Ruồi của Phùng Thăng nằm dưới
huyệt mồ thì bị ông lôi lên đập! Chuyện thật lạ đời!
Sau trận tập kích cuối năm 1967 của Trần Thiện Đạo,
rồi đến trận tập kích của phe Cộng Sản Bắc Việt vào Tết Mậu Thân 1968, mà Vỹ Dạ
là nơi xem như bị ảnh hưởng nặng nề nhất, khiến bản thảo của bà bị thất lạc, bà
hoàn toàn tuyệt vọng. Không ai có thể nghĩ là bà can đảm tiếp tục cho ra đời
thêm một dịch phẩm khác sau cú “sốc” dữ dội này. Vậy mà đến năm 1973 tức là hơn
5 năm sau, bà vẫn cho in bản dịch “Kẻ Lạ Ở Thiên Đường”, của Simone Weil, do An
Tiêm xuất bản.
Một
bài phê bình khắc nghiệt
Tôi đã đọc nhiều bài phê bình, nhưng chưa có một bài
phê bình nào lại mang những luận điệu hằn học, miệt thị đến độ điên cuồng như
ông Trần Thiện Đạo phê bình Những Ruồi
của Phùng Thăng. Còn từ ngữ nào
hơn để Trần Thiện Đạo “đánh”, “phang” Phùng Thăng? Đánh vào năm 1967, chưa hả, đánh
thêm vào năm 2001. Chưa hả! Lại bồi thêm vào năm 2008 trong khi PT đã chết, lại
chết thảm, trong khi sách bị đốt thành tro bụi, tìm nó như tìm vàng, phải nhờ
vào thư viện Cornell?
Đây là một vài ví
dụ trong bài chửi này:
Trước hết là chữ “những”:
Trên đời này tôi chưa bao giờ thấy ai lại dị ứng cái
chữ “những” như Trần Thiện Đạo.
PT dịch les mouches là “những ruồi”, ông sửa lưng phải
dịch là “ruồi”!
Ông dạy PT phải “giữ tánh cách Việt Nam”!
Dưới đây là nguyên văn ông trưng ra để chê bai Phùng
Thăng:
Nguyên tác :
(...) Ah! que, les mouches d'Argos m'ont l'air beaucoup plus accueillantes que
les personnes. (...)
(Les Mouches, sđd, tr. 14)
Phùng Thăng dịch
: (...) A! Vậy đó, những con ruồi ở Argos đối với tôi lại có vẻ niềm nở hơn
những con người. (...)
Và ông dạy PT phải dịch
như ông để “giữ tính cách Việt Nam”:
(...) Ý, trời mấy con ruồi này coi bộ biết niềm nở hơn con người ở Argos nhiều đó, đa cậu. (...)
Ông thay “những con ruồi” bằng “mấy con ruồi” và “những con người” bằng
“con người”.
Thú thật đọc đoạn ông dịch để “giữ tánh cách VN”,
tôi không khỏi phì cười. Nhất là 2 chữ “đa cậu”. Thưa ông, tôi là dân Trung,
nghe chữ “đa cậu” có vẻ làm sao ấy.
Còn nữa. Cụm từ mấy con ruồi mà ông dịch từ les mouches, tiếng Tây là quelques mouches! Quelques nghĩa tiếng Việt là “mấy, vài”! Quelque (số ít), quelques (số nhiều), khác với les mà ông!
Còn nữa. Bạn có bao giờ nghe ai
nói là ngôi nhà “chổng đít” ra đường không?
Vậy mà TTĐ lại dịch, nói là để
“giữ tánh cách Việt Nam”:
Nguyên tác:
Elles les ouvrent sur des cours bien closes et bien sombres,
j’imagine, et tournent vers la rue leurs culs. (...)
(Les Mouches, tr.12)
TTĐ dịch:
...Chắc là loại nhà
này cửa sổ ngó ra sân sau kín bưng và om tối và chổng đít ra đường (...)
(tập san Văn số 2, tháng 12-1967)
Tôi thì chỉ nghe động tác “chổng
mông”, “chổng đít”, “chổng khu” chỉ dành cho con người, đôi khi con vật...
(Thường thường, nó mang cảnh tượng chẳng đẹp đẽ gì, khiến phái nữ phải đỏ mặt
và các bà mẹ phải bịt mắt con cái không cho nhìn) chứ chưa bao giờ nghe ai nói
dành cho ngôi nhà! Đúng là dịch giả số một TTĐ!
Chó chổng đít - Ảnh: internet
Còn nữa, hết dạy tiếng Tây, TTĐ
lại dạy tiếng Nho. Ông chê Phùng Thăng
dịch cẩu thả: Người thiếu phụ trẻ (dịch Une jeune femme). Đã “thiếu” phụ sao lại
còn “trẻ”?
Còn cái cụm từ “trường phái Chú
Mục” mà TTĐ tự sáng chế khi dịch từ “La Force des choses” (trang 648) của
Simone de Beauvoir thì zero!
Ở
phần cuối của bài chửi, ông dùng bản dịch Câu Chuyện Của Dòng Sông (dịch
chung với Phùng Khánh) để biện minh tại sao ông lại phải bắt buộc phê phán
nặng nề Phùng Thăng:
“Trước khi chấm dứt bài điểm sách khá
dài này, chúng tôi cũng muốn tìm hiếu tại sao Phùng Thăng cây bút đã được độc
giả tin cậy qua bản dịch Câu chuyện của dòng sông, xuất bản trước đây
lại có thể cho in một bản dịch vừa phản, vừa diệt như bản dịch Những
Ruồi, lại có thể, khách quan mà
nói, khinh thường độc giả và miệt thị giới phê bình tới độ ấy. Chúng tôi nghĩ
rằng Phùng Thăng đã không đủ bình tĩnh mà suy xét để xem sự tín nhiệm của người
đọc đối với cô, nhờ bản dịch đầu tay vừa nhắc tới trên đây, như một lời ban
khen nặng nề trọng trách đối với độc giả và như một lời khuyến khích mình tiến
dấn tới chỗ tuyệt hảo, mà đã coi nó như một thứ giấy khống chỉ cho phép cô
tùy tiện muốn dịch sao thì dịch, không màng lưu ý tới chỗ mình có thể khiến
người đọc hiểu sai và biết lầm. Và đó là một thái độ, một tinh thần đáng
trách.”
(Nguyệt
san Văn số 2 tháng 12, 1967, trang 87. Đăng lại trong Từ Chủ Nghĩa Hiện Sinh Tới Thuyết
Cấu Trúc, trang 132, Trí Thức xb năm 2008).
Mô Phật. Lạy Chúa. Bởi vì ông Trần Thiện Đạo dốt tiếng
Đức nên ông không đọc được nguyên tác truyện “Siddhartha” trong tập “Weg nach
Innen” (Đường về nội tâm) của Hermann Hesse (1877-1962, giải Nobel Văn chương
1946). Nếu mà ông đọc được chắc thế nào ông cũng sẽ la làng sao lại dịch
Siddhartha (Tất Đạt) là Câu Chuyện Của Dòng Sông!? Hay tại sao lại dùng chữ
“những” quá nhiều, hay không dịch theo “cách Việt Nam”: Ý Trời! Đa cậu!!! Vậy
nè!...
Mặt khác vào năm 2012 trong một bài phỏng vấn trên tạp
chí Văn Nghệ ở Hà Nội, ông tuyên bố một trong hai nguyên cớ “khiến cho tình trạng dịch thuật cho tới nay thiếu
chất lượng tới mức cần phải khẩn thiết báo động” là: “Bản dịch không dựa
trên nguyên ngữ mà trên một bản dịch khác” (1).
Thưa ông, Câu Chuyện Của Dòng Sông dựa vào bản tiếng Anh để dịch (2). Nó không phải từ nguyên bản tiếng Đức. Có nghĩa là – theo ông – nó thiếu chất lượng. Vậy thì tại sao ông lại đi khen nức nở nó, hở?
Thưa ông, Câu Chuyện Của Dòng Sông dựa vào bản tiếng Anh để dịch (2). Nó không phải từ nguyên bản tiếng Đức. Có nghĩa là – theo ông – nó thiếu chất lượng. Vậy thì tại sao ông lại đi khen nức nở nó, hở?
Kết luận:
Ngôn ngữ nói lên phẩm chất của nhân
vật. Mỗi thứ
ngôn ngữ phải có chỗ đứng của nó.
Văn chương của Phùng Thăng chính là
con người của
bà: Một loại văn chương chọn lọc, sang cả, cẩn
trọng.
Ngôn ngữ Phùng Thăng sử dụng lột tả được
vai trò của Thần, của Gods… đồng thời
cũng vẽ lên
được nhân cách quá đẹp của bà - Phùng Thăng, một
đời tài hoa bạc mệnh!
Trần Thiện Đạo lầm lẫn “tính cách
Việt Nam” với sự
sàm sỡ, với ngôn ngữ cục mịch. Những chữ như “Ý,
trời!” hay
“... đa cậu”, “cậu nè”, “như vầy”, “chổng
đít” mà TTĐ cố nhét vào “Ruồi” của
ông, chúng chỉ
hay khi phát ra từ miệng một người dân quê Nam
Bộ, thuở xã hội
còn sơ khai, như các nhân vật trong
Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam chẳng hạn.
Đọc ngôn ngữ phê bình của TTĐ, chúng ta nhận ra
một thứ ngôn ngữ của một con
người võ đoán, hẹp
hòi, ngạo mạn, coi thiên hạ là đồ bỏ, luôn luôn muốn
làm thầy
thiên hạ.
Bản chất này được biểu lộ qua những câu như: “phải
dịch như sau thì mới đúng và
có nghĩa”, “phải dịch
như sau đây thì mới sáng nghĩa” trong bài viết của
ông.
ngôn ngữ phải có chỗ đứng của nó.
bà: Một loại văn chương chọn lọc, sang cả, cẩn
trọng. Ngôn ngữ Phùng Thăng sử dụng lột tả được
vai trò của Thần, của Gods… đồng thời cũng vẽ lên
được nhân cách quá đẹp của bà - Phùng Thăng, một
đời tài hoa bạc mệnh!
Trần Thiện Đạo lầm lẫn “tính cách Việt Nam” với sự
sàm sỡ, với ngôn ngữ cục mịch. Những chữ như “Ý,
trời!” hay “... đa cậu”, “cậu nè”, “như vầy”, “chổng
đít” mà TTĐ cố nhét vào “Ruồi” của ông, chúng chỉ
hay khi phát ra từ miệng một người dân quê Nam
Bộ, thuở xã hội còn sơ khai, như các nhân vật trong
Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam chẳng hạn.
Đọc ngôn ngữ phê bình của TTĐ, chúng ta nhận ra
Bản chất này được biểu lộ qua những câu như: “phải
dịch như sau thì mới đúng và
có nghĩa”, “phải dịch
như sau đây thì mới sáng nghĩa” trong bài viết của
ông.
Nói như Nhị Linh: TTĐ là kẻ “không biết tiếng Việt nhưng lại
rất to mồm”!
Vâng to mồm thật. Ngay cả Camus, TTĐ cũng còn chê là viết lủng củng bắt ông ta
cũng dịch lủng củng theo (3) trong khi ông không phải đẻ ở Pháp mà qua Pháp lúc 15 tuổi, làm Tây mũi tẹt, đáng xách dép
cho Camus!
Ông thật xứng đáng làm giáo chủ của trường phái “nghĩa tử
không là nghĩa tận”!
Trần
Hoài Thư
(1) Văn
Nghệ số 16 ngày 21-4-2012.
(2) Xin đọc Câu Chuyện Dòng Sông và dịch giả Phùng
Khánh của
Thái Kim Lan đăng trên nhiều trang mạng.
(3) nguyên văn: Như một lần tôi dịch tác phẩm của Camus. Camus có thời viết
lủng củng, tôi cũng dịch lủng củng như thế. (nguồn: Tuoitre online ngày 09/01/2007: Dịch
giả Trần Thiện Đạo: Phải tôn trọng văn phong của tác giả)
(**) Một vài bài luận án được post trên NET như của Nguyễn
thị Nguyệt Anh (luận án thạc sĩ), Nguyễn Lê Thạch (luận án tiến sĩ), Vương văn
Tín (luận án thạc sĩ) đều dùng cuốn sách của TTĐ làm tài liệu tham khảo.
(Trích từ tạp chí Thư Quán Bản Thảo số 71 phát hành tháng 8
-2016 chủ đề: Chiều đầy bông Phùng Thăng)
Phần Phụ lục
Trong bài viết, chúng tôi có đề cập đến nhận định của Nhị
Linh về khả năng dịch thuật của TTĐ, qua
hai ví dụ là Đại Tây Dương và Tể tướng Bộ Tư Pháp trong Cậu
Hoàng Con, bản dịch của Trần Thiện Đạo, Khai Trí xuất bản năm 1966.
Để giúp quí bạn thấy rõ hơn về việc đánh giá này, chúng tôi
xin đăng lại trang chụp liên hệ từ cuốn sách Cậu Hoàng Con mà chúng tôi mượn
được từ một thư viện đại học Mỹ. Mặt khác chúng tôi cũng kèm thêm một số trang
chụp khác, như là chứng cớ nói lên khả năng dịch thuật và xem thường độc giả
của TTĐ đến mức như thế nào!
(Cậu Hoàng Con - trang 80, TTĐ dịch Pacifique là Đại Tây
Dương!)
Nguyên tác:
....
On pourrait entasser l’humanité sur le moindre petit îlot du Pacifique.
(SĐD,
trang 50)
TTĐ
dịch Général là “thiếu tướng”!
(Nguyên
tác: ... si j’ordonnais un général
de se changer en oiseau de mer, et...)
Tệ
hại nhất là cẩu thả vô trách nhiệm, coi độc giả không có kí-lô nào. Chẳng hạn cái
cụm từ: “Ruồi chú sẽ phải đau lòng” thay vì “Rồi
chú sẽ phải đau lòng”:
(Cậu
hoàng con - trang 122)
Hay
“những vì tôi đang trông thấy” ! (SĐD, trang
107)