Tôi
ngừng hẳn xe lại ngay giữa đường, con đường trong khu xóm gần nhà rất nhỏ nên mặc
dù chạy rất chậm tôi cũng không thể nào tránh khỏi mấy cô cậu gà sao đang hiên
ngang băng qua đường trong ánh nắng nhạt nhoà của buổi chiều cuối tháng mười một.
Một đàn gà sao, con trắng, con màu ngà, con màu nâu, mỗi con đều lấm tấm những
chấm như chấm đồi mồi trên mình với cái mỏ nho nhỏ, nhọn trắng và cái mào đỏ rất
ngộ nghĩnh. Chiều nào cũng vậy, mỗi lần đi làm về ngang qua con đường này là tôi
cũng phải ngừng xe và thích thú nhường con đường cho những chú gà đang thong thả
rong chơi trong khu xóm đó. Hôm nay cũng
như mọi ngày, đám gà đã lần lượt băng qua phía bên kia đường, chỉ còn một chú
nhỏ con hơn cả bọn là còn đứng ngơ ngẩn một mình còn lại. Tôi kiên nhẫn chờ đợi,
cũng may là phía sau không có chiếc xe nào đang chờ. Một vài phút thấy chú gà tội
nghiệp đó ngơ ngáo không biết phải làm sao, tôi đành phải tấp xe vào bờ lề, bước
xuống kiếm một nhánh cây khô trên cỏ rồi từ từ hướng dẫn chú ta qua đường trong
khi đám gà sao kia đã lao nhao bay lên những nhánh cây gần đó. Bây giờ thì đến phiên tôi ngẩn ngơ vì tôi chưa
từng nghĩ là loài gà có thể bay cao như thế.
Đang nhìn mê say đám gà thì bỗng dưng tôi giật mình với một giọng nói dường
như thì thầm sau lưng tôi:
“Cute,
Ain’t it? (dễ thương quá phải không?)”
Tôi
xoay nguời lại rồi ngỡ ngàng khi nhìn thấy trước mặt tôi là một người đàn bà ốm
nhom như một người bù nhìn. Bà ta chắc cao chừng 4’8 và nặng chừng 80 pounds.
Hai cánh tay và hai ống chân khẳng khiu như những khúc củi khô đét lòng thòng
qua cái áo T-shirt vàng vàng không biết vì dơ hay vì đó là màu vàng lợt, cái quần
Capri dài lưng lửng màu đen sẫm với những bệt đất dơ trên ống quần. Có lẽ cái
“mập mạp” nhất trên người bà ta phải nói là cái đầu đầy một vùi tóc rậm màu muối
tiêu rối bời quấn quanh khuôn mặt choi choắt. Nét mặt của người đàn bà nhăn
nheo, già nua đến độ tôi không tài nào có thể diễn tả được sự già nua nào hơn
nữa. Trên khuôn mặt già nua, cằn cỗi đó tôi bắt gặp đôi mắt còn nâu biếc và một sự
lạnh lùng xa vắng. Tôi mỉm cười:
“Dễ
thương thật bà ạ! Cháu không ngờ là chúng nó biết bay.”
Bà ta cũng cười, nụ cười hóm hém vì không
còn một cái răng nào cả:
“Chúng
nó bay lên cây hai lần,sáng và chiều. Tôi thấy chúng nó mỗi ngày.”
Nói
xong bà ta chỉ thẳng đến một cái ghế bằng nhựa màu xanh đậm đã gãy đi cái lưng
dựa phía sau, cái ghế nằm khuất một bên hiên nhà bên cạnh những lùm cây. À, thì
ra đây là người hay ngồi bên hiên nhà mà mỗi lần tôi lái xe đi ngang vẫn thấy
nhưng không bao giờ chú ý tới. Tôi nhìn kỹ, căn nhà hai tầng lầu sơn màu xanh lá
cây như màu cái ghế và cũng cũ kỹ, hư nát như cái ghế. Một bên hàng rào nhà đã
xiêu vẹo và bên cạnh là những chậu hoa cúc vàng nằm ngang ngửa bừa bãi. Tôi tò mò hỏi:
“Bà
ở một mình à?”
Giọng
bà lão tự dưng cáu kỉnh:
“Không
đâu, thôi tôi về đây.”
Nói
xong bà ta lửng thửng đi về nhà ngồi lại trên chiếc ghế đổ nát đó. Dường như có
một cái gì rất đặc biệt về người đàn bà này nên ngày hôm sau, nhằm ngày cuối tuần,
thay vì chạy bộ trong xóm, tôi cố tình chạy qua xóm bên cạnh mong gặp lại người
đàn bà lạ lùng hôm qua.
Quả nhiên như tôi ước muốn, người đàn bà còm cõi đó đang ngồi co ro trên chiếc ghế
xiêu vẹo. Bà ta đang mặc một cái áo len rộng thùng thình như cái mền, trên đầu
đội một cái nón len màu đất sét. Có lẽ cái thân thể ốm yếu đó không chịu nổi cái
lạnh dù chưa se sắt lắm của tháng mười một.
Khi chạy ngang qua chỗ bà ta ngồi tôi cố ý chạy chậm lại và vẫy chào. Bà
lão đưa tay ra dấu cho tôi ngừng lại và dịu dàng hỏi:
“Cháu
chạy như vậy chắc mệt lắm?”
Nói
xong bà chỉ cái ghế bên cạnh cũng xiêu vẹo, méo mó như cái ghế bà đang ngồi rồi
mời tôi ngồi. Tôi từ chối và hỏi chuyện:
“Sáng
nay mấy con gà sao ra chơi chưa hả bà?”
Bà
lão nhìn qua bên kia đường và trả lời:
“Hôm
nay lạnh chúng nó ra muộn. Ừ, mà cháu từ đâu đến?”
Tôi nói với bà ta tôi là người Việt Nam và bỗng dưng đôi mất nâu kia có một chút reo vui:
“Thuở
trước chồng tôi cũng đi “Nam” và đưa Việt về.”
Tôi
nghe bà lão nói thì nghĩ là bà ta hơi lẫn nên nói lung tung, nhưng bà ta nói tiếp:
“Tới
Thanksgiving này là ngày giỗ thứ hai mươi của Việt.”
Tôi
càng nghe càng tò mò nên cẩn thận ngồi xuống chiếc ghế ọp ẹp bên cạnh và hỏi liều:
“Việt
là ai hả bà?”
Đôi
mắt màu nâu sụ xuống buồn bã:
“Việt
là con trai của chúng tôi đem từ “Nam” về.”
Tôi
ngẫm nghĩ ra và la lên:
“Cháu
hiểu rồi, bà đem Việt về từ Việt Nam?”
Bà
lão mỉm cười và dường như đây là cơ hội cho bà thố lộ nỗi tâm tư đã ấp ủ tự bao năm
qua nên bỗng dưng bà nói huyên thuyên, và đôi mắt trở nên linh động theo từng lời
nói.
“Chồng
tôi đem thằng bé Việt về vào dịp lễ Tạ Ơn và đó là món qùa quá qúi báu cho sinh
nhật của Cyn.”
Tôi
thắc mắc:
“Cyn?”
Bà
lão hảnh diện chỉ vào ngực mình:
“Cyn
là tên của tôi gọi tắt từ Cynthiana. Cháu có thể gọi tôi là Cyn.”
Theo
lời Cyn kể thì chồng của bà lúc đó là đại uý và ở Việt Nam cho tới lúc gần thất
thủ. Trước khi ông về lại Mỹ, ông có đánh điện cho bà hay là ông sẽ mang một đứa
bé năm tuổi từ viện cô nhi về nuôi. Năm đó ngày sinh nhật của Cyn lại nhằm ngày
lễ Tạ Ơn cho nên Cyn cho đó là món qùa sinh nhật có ý nghĩa nhất đối với bà. Đôi mắt của Cyn như đang mỉm cười khi bà nói về đứa
bé:
“Vừa
thấy thằng bé là tôi đã thấy yêu thương nó ngay (I fell in love with him instantly).
Tuy rằng nó không được lành lặn như những đứa bé khác nhưng đối với tôi, nó là
đứa bé thật toàn vẹn.”
Cyn cho biết vì đứa bé mang từ Việt Nam về
nên hai vợ chồng đặt tên nó là Việt để kỷ niệm và để nhắc nhở cho nó biết về
nguồn gốc của nó sau này. Bé Việt bị bệnh bại não (cerebral palsy) từ lúc sanh
ra nên nó bị hất hủi trong viện mồ côi, chồng của Cyn trong một chuyến viếng thăm
thấy quá tội nên quyết định xin thằng bé về nuôi. Cyn tiếp tục kể:
“Tôi
nghiệp thằng bé lắm cháu à, mặc dù cơ thể của nó không di động bình thường
nhưng Việt rất thông minh, nó
hiểu rõ đời hơn những đứa bé cùng trang lứa.”
Tôi biết Cyn muốn nói gì vì tôi đã từng làm
việc với những em bé cũng như người lớn bị bệnh bại não này. Bệnh này ảnh hưởng
đến những giây thần kinh trong đầu nên cơ thể của họ di động rất khó khăn vì họ
không tự chủ được khi những bắp thịt co giãn không ăn khớp nhau. Phần nhiều những
người bị bệnh này đều di chuyển bằng những chiếc xe lăn bằng điện, khả năng nói
chuyện là cả một khó khăn, họ có thể dùng tấm bảng viết chỉ lên những chữ vần
hoặc những hình vẽ sẵn để cho biết những thiết cần giản dị trong đời sống. Những
người có phương tiện thì dùng tới những dụng cụ tối tân hơn để có thể “nói” như
xử dụng electronic speech synthesizers. Tuy nhiên, tùy theo não bộ bị ảnh hưởng
nhiều hay ít, speech therapist có thể luyện tập cho họ nói được những câu ngắn
thông thường. Tôi hỏi Cyn:
“Việt
lúc đó có nói chuyện được không bà?”
Cyn gật đầu:
“Thằng
bé nói được chút xíu thôi nhưng lúc đầu tôi không hiểu vì Việt nói tiếng Việt
Nam, lúc mới đến nó chỉ khóc thôi vì cái gì đối với nó cũng xa lạ hết, ngay cả
chúng tôi là những khuôn mặt không thân quen với nó. Việt đến với gia đình tôi
vào dịp lễ Tạ Ơn nên lúc nào tôi cũng nghĩ cuộc hành trình viễn lưu của Việt từ
“Nam” qua đây chẳng khác chi cuộc hành trình của những người pilgrims tới từ một
nơi chốn xa xôi và phải đương đầu với những thử thách, khó khăn trước mặt.”
Câu nói văn hoa của Cyn khiến tôi nghĩ tới
đoàn người Pilgrims bỏ xứ Anh Quốc năm 1608, lưu lạc qua tới Hoà Lan vì niềm
tin tôn giáo của họ. Chỉ một thời gian sau đó họ lại bị trở ngại ở Hoà Lan, đành
trở về lại Anh Quốc với ý định tìm cách qua tới Mỹ Quốc. Một đoàn gồm 102 người hành hương rời bỏ
South Hampton trên hai chiếc thuyền Speedwell và Mayflower, rồi sau đó cơ thời
sóng gió, chiếc Speedwell bị vỡ và tất cả gom trên chiếc tàu Mayflower rời
Plymouth với hy vọng đến Virginia để lập địa. Nhưng sau 66 ngày lênh đênh trên
biển cả với những thách thức khủng khiếp của tạo hoá, cuối cùng họ đến được Cape
Cod, Massachusetts để khai thiên, lập địa.
Đúng như Cyn nói, thằng bé Việt đã rời một
nơi chốn không thể nào đáp ứng được một chu toàn cho đời sống vì sự tàn tật của
nó. Ngoài hình hài khác thường và trí óc
phát triển chậm chạp của nó, nó đã phải bỡ ngỡ với cuộc sống trong một xã hội hoàn
toàn khác biệt. Nhưng với tôi, sự thử thách lớn lao và sự hy sinh vô bờ bến của
Cyn để lo lắng cho một đứa bé tật nguyền mới đáng so sánh với cuộc hành trình đầy
gian khổ của những người tha hương đó.
Tiếng cười của Cyn cắt đứt dòng tư tưởng
của tôi:
“Cháu
biết không thằng bé Việt ngộ lắm, mặc dù không nói được nhiều nhưng nó hay chỉ
những hình vẽ trên tấm bảng để nói nó yêu tôi và chồng tôi. Chúng tôi thật là
may mắn được đón nhận nó vào cuộc đời của chúng tôi.”
Càng nghe Cyn nói chuyện tôi càng cảm thấy
mến chuộng bà và tự trách mình là đã “trông mặt mà bắt hình dong”, nhìn bề ngoài
của Cyn và cứ nghĩ Cyn là một người đàn bà tầm thường và hơi bị mất trí nhưng
thật sự thì hoàn toàn trái ngược. Việc
Cyn và gia đình đón nuôi Việt, một đứa bé tàn tật từ một dân tộc khác đã chứng
tỏ tấm lòng bác ái bao la của Cyn. Cyn còn
cho biết là bà đã không đi làm, ở nhà chăm sóc cho Việt, đưa thằng bé đi học những
chương trình đặc biệt dành cho trẻ em tàn tật, và thì giờ rảnh thì hai mẹ con
thường ra trước đường ngắm những con gà sao qua lại mỗi chiều. Theo lời Cyn kể
thì đoàn gà sao này ở đây khá lâu, chủ nhà là người ở đối diện phiá bên kia đường
của nhà Cyn, căn nhà không có hàng rào nên mấy chú gà tha h ồđi rong chơi. Tôi nhìn
theo tay chỉ của Cyn thì thấy trước cửa nhà có đề chữ “ Guineas Crossing” như
nhắc nhở cho xe cộ phải đi chậm lại. Với một giọng rất vui Cyn tiếp tục kể:
“Từ
lúc Việt lớn khôn, chúng tôi không dám ăn thịt gà tây vào dịp lễ Tạ Ơn vì Việt
hay khóc, nói rằng ăn thịt gà tây chẳng khắc nào ăn thịt mấy con gà sao là bạn
của Việt. Mỗi năm tôi đều dựng một cái bảng trước cổng nhà và mỗi lần nhìn tấm
bảng này là thằng bé cười ngặt nghẽo.”
Tôi
nhìn kỹ trước nhà của Cyn và qủa thật, chen lẫn trong những chậu cúc vàng trước
cửa nhà, một tấm bảng rất cũ kỹ có hình một chú gà tây đang cười hóm hình đưa
tay chỉ qua một mũi tên có dòng chữ “Eat Ham This Year” (Năm nay ăn thịt heo nhé).
Tôi bật cười và đùa với Cyn:
“May
mà bà không cho Việt nhìn mấy chú heo con, không thôi thì bà sẽ không được ăn
thịt gì cả trong mùa lễ Tạ Ơn.”
Một
lần nữa giọng Cyn tha thiết:
“Cháu
biết mà, ngày xưa những pilgrims ăn mừng để tạ ơn trời đã cho họ được thắng lợi
mùa màng. Tôi và chồng tôi thì tạ ơn trên đã cho chúng tôi có được một đứa con
rất đặc biệt để yêu thương đó là bé Việt.”
Qủa
thật như vậy, theo lịch sử, năm 1621, lần đầu tiên những người tha hương tổ chức
buổi lễ để tạ ơn trên đã cho họ đạt được sự thịnh vượng trên vùng đất mới. Thức ăn
của họ có bắp, thịt, rau cải và bí. Chính những người mọi (Indians) đã tiếp đãi
họ lúc mới dừng chân trên đất lạ cũng được mời tới tham dự. Có phải chăng vì thế
mà mỗi năm nhằm ngày lễ này tất cả mọi người trong gia đình đều tụ họp nhau để ăn
mừng và cám ơn thượng đế đã cho họ một đời sống bình yên đầy đủ chăng?
Bây
giờ thì những chú gà sao đã thức dậy, gà mẹ, gà con đang lần lượt đi qua đường.
Cyn nhìn đám gà và giọng trầm buồn:
“Tre già măng mọc, con gà này chết thì có đàn gà
con khác thế, chỉ có tôi là còm cõi một mình.”
Tôi ngập ngừng lập lại câu hỏi từ hôm
qua:
“Bà
ở một mình à?”
Cyn
thong thả lắc đầu:
“Tôi
ở với hai người cháu nhưng năm nay chúng nó đi thăm con chúng nó ở tiểu
bang khác rồi.”
Cyn không ngần ngại kể thêm là chồng bà mất
cách đây hai mươi lăm năm để lại bà và Việt bơ vơ. Trong khoé mắt của Cyn dường
như đang rưng rưng lệ:
“Tôi
không thể nào quên đưọc hình ảnh Việt oằn oại trên chiếc xe lăn, hai cánh tay
quơ quàng trước mặt, khóc
nức nở và cố gắng thều thào được hai tiếng “daddy” khi Edward, ba của nó qua đời.
Tuy trí óc nó khờ khạo nhưng nó cũng biết tình thương vô bờ bến mà ba nó dành
cho nó. Edward là một người đàn ông tuyệt vời cháu ạ.”
Bây giờ thì tới phiên tôi rơm rớm nước mắt
khi nghe Cyn kể chuyện. Qua cái hình hài đơn sơ mộc mạc đó, người đàn bà trước
mặt tôi là người có trái tim rất bao la. Tôi biết thêm là chỉ năm năm sau thì
Việt cũng bỏ Cyn ra đi vào một ngày lễ Tạ Ơn. Cyn đưa tay áo quệt nước mắt:
“Ngày
xưa sáng sớm vào ngày lễ Tạ Ơn, tôi và Việt hay mặc áo quần đẹp, trên xe lăn của
Việt có cắm một
ngọn cờ USA, tôi và thằng bé đi giữa hàng gà sao mà chúng tôi gọi là đi “parade”
để mừng ngày lễ. Việt như một vì sao sáng, nó vô tư và hay cười nứt nẻ khi nhìn
thấy những chú gà sao rượt nhau bay lên cây. Món ăn mà Việt thích nhất vào dịp lễ
này vẫn là món pumpkin pie bất hủ của tôi làm. Mấy năm nay tôi yếu nên chỉ mua
thôi, không làm. Tuy nhiên, mỗi năm để tưởng nhớ tới Việt tôi vẫn ra đây đi giữa
đàn gà nhưng sao tôi thấy cô đơn quá. Cháu có thấy tấm bảng đặc biệt tôi làm
cho Việt để trước cửa nhà không?”
Trên cánh cửa nhà đổ nát, một vòng hoa (wreath)
được trang hoàng với những nhánh lá vàng khô mùa thu, những qủa acorns và những
qủa bí nho nhỏ. Ngay chính giữa vòng hoa
đó có một mảnh vải thêu với dòng chữ đậm “In Memory of Viet”.
Cyn khoe:
“Tôi
mới treo nó hôm qua thôi vì chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày lễ Tạ Ơn rồi. Năm
nay chắc không có bánh
pie và tôi cũng sẽ không đi parade một mình, buồn lắm cháu à.”
Khi hỏi ra thì tôi mới biết vì hai người
cháu vắng nhà cả hơn hai tuần rồi nên chi sẽ không có ai mua sắm gì giùm Cyn. Bây
giờ thì tôi mới hiểu tại sao Cyn ăn mặc luộm thuộm, dơ bẩn vì có lẽ bà ta đang
chán đời khi ở trong căn nhà trống vắng đơn côi một mình.
Tôi nói với Cyn:
“Bà
ơi, ngày lễ Tạ Ơn, cháu sẽ đem pumpkin pie, thịt ham đến và sẽ mặc áo quần thật đẹp
cùng bà đi parade với đàn gà sao để tưởng nhớ đến Việt nhé.”
Cyn cầm tay tôi rồi nói rất ngây ngô:
“Thật
vậy hả cháu? Cám ơn cháu nhé, nhớ mặc đồ thật đẹp và đừng chạy bộ tới đây vì như
thế cháu sẽ không
còn sức đi parade đâu.”
Tôi nhủ thầm, không đâu, tôi xin cám ơn
Cyn vì gần bốn chục năm qua, ngày lễ Tạ Ơn đối với tôi chỉ là một ngày nghỉ ngơi
ăn uống và vui chơi với bạn bè và gia đình. Có lẽ, năm nay là năm đầu tiên tôi mới
hiểu được cái ý nghĩa tạ ơn về tình người,về những lành lặn hữu toàn trong đời sống
mà tôi đang có. For I wondered and wondered long, If somehow it could be, That
I have given half so much, As Cyn has given to me.
Tôi đưa tay chào Cyn, dậm chân bắt đầu lấy
trớn chạy về nhà và nhìn thấy Cyn đang gửi đến tôi nụ “hôn gió” trong tiếng cười
dòn dã.
Nguyễn
Thị Huế Xưa