Cho tôi nói một lời rất thật
Dẫu xa người, người chẳng mất tôi đâu.
(NMN,
Lời ghi trên đá, tr.28)
Thương
quá Sài Gòn ngày trở lại, tập truyện ký mới của anh Nguyễn Minh Nữu đến với tôi
vào những ngày cuối cùng của tháng tư Sài Gòn. Cơn mưa sáng nay dường như làm
cái nóng thiêu đốt gắt gay chuyển mùa của thành phố phần nào dịu lắng lại. Mùa
mưa đang trở về thành phố này… Và tập truyện ký ăm ắp bao nhiêu là ký ức xa gần
của anh xoay quanh mảnh đất tôi sinh ra và lớn lên này bỗng dịu dàng như một tà
áo lụa Hà Đông mềm mại thấp thoáng phố phường…
Thật
lòng, không hiểu sao tôi đã nhận lời ngay không ngần ngừ khi từ dòng Potomac
bên kia đại dương anh inbox, rồi email bản thảo về… tính chưa đầy 10 ngày. Thời
gian tiếp cận quá ngắn cả với tác phẩm lẫn tác giả. Có lẽ bởi ngay từ tựa đề của
tập truyện ký đã cuốn hút tôi. Có lẽ bởi nhắc đến Sài Gòn là nhắc đến những gì
tha thiết nhất, thương nhớ nhất không chỉ trong tôi mà có lẽ cả thế hệ của tôi
- những người đã sinh ra và lớn lên, đã khóc cười cùng những thăng trầm bể dâu
của mảnh đất “thương quá” này. Những khuôn mặt thân thương bè bạn cứ lần lượt
hiện ra qua từng trang viết thầm thì của anh. Và tôi đã đọc, đã cảm nhận từ điểm
nhìn ân tình sâu nặng ấy ngay từ phút chạm cái tựa đề tác giả cố tình đảo trật
tự cú pháp một câu kể thành câu cảm…mở ra cả một tâm thế đau đáu hoài niệm yêu
thương và tiếc nhớ không nguôi…
198
trang không kể bạt, bìa và phụ bản trong Thương quá Sài Gòn của anh Nguyễn Minh
Nữu được sắp xếp thành bốn phần chính. Phần 1, chiếm hơn nửa dung lượng cuốn
sách là 135 trang bút ký cùng tên với tác phẩm. Ba phần còn lại là ba truyện ngắn
mang tính chất nửa kì ảo nửa lịch sử lẫn hiện thực của anh: Thuồng luồng mắt biếc,
Con trai thủy thần và Hảo hán cuối cùng từng được đăng rải rác ở Quán Văn và một
số trang mạng văn chương.
Có
lẽ không có gì ngạc nhiên khi tác giả chọn thể loại bút ký cho phần 1 Thương
quá Sài Gòn trong suốt 12 chương. Bởi đây là một thể của ký, nằm trung gian giữa
ký sự và tùy bút. Nguyễn Minh Nữu đã ghi lại khá chân thực những cảnh vật, sự
kiện, chân dung bè bạn gần - xa, cũ - mới mà bản thân anh từng sống, từng đi
qua bằng hơn nửa thế kỷ dâu bể đời mình. Gần như là những câu chuyện thật
99.9%...mắt thấy tai nghe, ghi nhận từ các chuyến đi-về và lang thang dong ruổi…trên
các dặm đường. Không gian được xác định là Sài Gòn nên bao quát gần như những
ngõ ngách mà bất kỳ ai chỉ cần nghe tên gọi đã thấy thân thuộc: Quận 1, Quận 3,
Bàn Cờ, Thương xá Tax, Kênh Tẻ, Kênh Tàu Hủ… Những con đường. Những góc phố. Những
tiệm sách hầu như ai cũng có lần từng đặt chân vào: Khai Trí, Xuân Thu, Vĩnh Bảo,
Tự Lực...hay ngôi nhà ký ức nửa sau thế kỷ trước. Một vài chương tác giả lại
ngược chiều không gian hiện thực SG bằng không gian kỷ niệm của ông: Đà Lạt, Mỹ
Tho, Ban Mê Thuột, Pleiku…thuở thanh xuân. Sự chuyển đổi này được đi theo dòng
ký ức tuôn trào hết sức tự nhiên bởi nó được vắt qua và đan xen giữa những trục
thời gian cũng vô cùng linh hoạt. Mới ở chương 1 là ngày trở lại gần đây nhất
(25.12.2016) và người bạn lâu năm nhất, thân nhất thưở mới lớn là nhà thơ Đoàn
Văn Khánh (ĐVK), để từ nhân vật đầu tiên này, Nguyễn Minh Nữu - tác giả - tôi -
người kể chuyện mở ra những sợi dây liên kết đến chuỗi những nhân vật khác, ở
những không gian khác, thời điểm khác nhưng hữu duyên hay tình cờ đã dự phần đậm
nét trong từng khoảnh khắc cuộc đời ông từ…nửa thế kỷ trước, ở các chương tiếp
theo.
Tôi
thật sự thú vị khi lần theo những mối dây liên kết này, qua cách kể - ghi chép
lại tưởng như ngẫu hứng của tác giả. Và qua đó, bắt gặp khuôn mặt Sài Gòn những
năm 60, 70, trở đi trở lại cùng thấp thoáng một Sài Gòn hiện tại.
Từ
Đoàn Văn Khánh, tác giả mở ra những người bạn Quán Văn và các buổi sinh hoạt ra
mắt tập san này như một sinh hoạt thuần túy văn chương nhân bản và tụng ca cái
Đẹp (Chương 1,2,5). Chân dung chủ biên Nguyên Minh đến từng cây bút Quán Văn
tuy chỉ là một lát cắt rõ nét hay thoảng qua nhưng rõ ràng tác giả có sự quan
sát tinh tế, miêu tả chân thưc, tóm gọn vài dòng mà giúp người đọc cảm thấy như
cũng gần gũi thân quen với đôi “trai tài gái sắc” Trương Văn Dân-Elena, hay sẽ
tò mò tìm thử “Chuyện Làng Nguyệt Tui” qua giọng châm biếm của Từ Sâm-Nha
Trang, biết người góp mặt từ số đầu tiên như Hiếu Tân-Vũng Tàu, Nguyễn Hòa vcv,
các anh Khuất Đẩu, Mang Viên Long, Cao Quảng Văn, Vũ Trọng Quang, Thân Trọng
Minh, Đỗ Hồng Ngọc…danh giá. Những ấn tượng của tác giả về Nguyễn Sông Ba, Đoàn
Đình Thạch, Đặng Châu Long, Ngô Thị Mỹ Lệ, Trần Hữu Hội…cũng đầy chính xác và
trìu mến thân tình. Và nơi cái tòa soạn “chuồng cu” đó, là những gặp gỡ đi-về của
anh chị Phạm Cao Hoàng-Cúc Hoa, Phạm Thành Châu…cùng món cốm nén truyền thống
xúc động tình quê gia truyền mà anh hoan hỷ mang đến đãi bạn bè…cũng đã thành nỗi
nhớ.
Từ
Đoàn Văn Khánh và những quán café Sài Gòn, tác giả kể với người đọc về phong
trào Du ca Sài Gòn từ ngày anh tham dự lần đầu với những tên tuổi một thời Nguyễn
Quyết Thắng, Bùi Công Bằng, Đinh Việt Hùng, Nguyễn Ngọc Linh, Phan Ni Tấn, Lê Hồng
Thái, Phan Văn Huân…(Chương 4,6,8). Những ca khúc phổ nhạc một thời của Nguyễn
Quyết Thắng, Phan Ni Tấn và các bạn hữu của ông đã nhắc nhớ lại cả một phong
trào sôi nổi của thanh niên Sài Gòn một thời hồn nhiên khát khao lý tưởng, độc
lập, hòa bình…Một thời…bản thân tôi như bao thanh niên Sài Gòn từng cũng háo hức
đi theo. Tôi cũng xúc động như sống cùng các anh giữa không gian tiếng đàn, tiếng
hát hừng hực tuôn tràn trong tiếng đại bác và tiếng còi hú inh ỏi của xe Quân cảnh…xứ
núi những năm 1970. Đồng thời cũng lắng nghe tiếng lòng khát khao và những ước
mơ tuổi trẻ rất đẹp của các anh:
Nhớ
về những ngày tháng đó, trong hào hứng của tuổi thanh niên, chúng tôi ngồi và
suy nghĩ thật viễn mơ rằng khoảng năm ba năm nữa, khi không còn chiến tranh,
chúng ta cũng vừa vượt qua khỏi cái tuổi mới lớn, mỗi người làm việc từ vị trí
riêng, sẽ cùng nhau thực hiện một cơ sở văn nghệ liên kết với nhau thành Ấn
Quán, Xuất Bản, Thư Trang, Tạp Chí, và Câu Lạc Bộ. Đã qua rồi cái thời Bút
Nhóm, Thi Văn Đoàn, nên chúng tôi đặt tên là Cơ Sở Văn Nghệ Con Người. (tr. 72)
Từ
Đoàn Văn Khánh, người đọc cũng bắt gặp một Nguyễn Minh Nữu rất chân thành, chân
thật rạch ròi với chính mình và bạn hữu qua những mối quan hệ tình bạn, tình
yêu đầu đời. Có chia bùi sẻ ngọt. Có va vấp, ngộ nhận. Có giận hờn, tự ái tuổi
trẻ. Nhưng cũng biết lắng nghe và chịu trách nhiệm, biết nhận lỗi, cảm thông. Kể
về quá khứ không phải để khóc than tiếc nuối, mà chỉ là để thương lại những niềm
thương:
Thương
lắm đó khoảng trời xanh bất biến
Giữa
đổi thay dâu biển của lòng tôi
(Nguyễn Minh Nữu, Ngát thơm ký ức, tr.37)
Chương
7 là một chương khá đặc biệt, như biệt lập với dòng ký ức ở các chương trước. Một
khuôn mặt khác của tuổi trẻ Sài Gòn thao thức hiện lên và đọng lại trong tôi
sau những đoạn miêu tả cặn kẽ của tác giả về những đổi thay của kênh Tàu Hủ nước
đen bùn lầy nước đọng nay là con đường Xa lộ Đông Tây mới xây, được mệnh danh
là “con đường "dài 300 năm" bởi nó chạy suốt chiều dài lịch sử hình
thành và phát triển vùng đất Sài Gòn”. Ở đó có Hùng, có Mai, có Phan Ni Tấn những
ngày Sài Gòn tao loạn… và người sinh viên Đại học Khoa học hy sinh mùa xuân
1968 cùng tâm trạng một thế hệ lạc lõng mất mát niềm tin qua bài thơ anh để lại
trong tập giấy học trò bỏ quên. Người lính ấy đã chết trong lúc di chuyển về
căn cứ. Một thế hệ bị đánh cắp tuổi trẻ. Buồn.
…
Nếu
đôi lúc nghe giảng bài con ngủ gục
Hoặc
reo hò như một chỗ không người
Thầy
tha thứ cho con đừng trách phạt
Vì
bây giờ không còn chỗ vui chơi.
(trang
62)
Mặc
dù chủ đích tái hiện con người và sự việc một cách chân thật, phong phú, sinh động
như chính thực tế, nhưng qua đó Thương quá Sài Gòn còn biểu hiện khá trực tiếp
khuynh hướng cảm nghĩ của tác giả, nhiều đoạn đậm màu sắc trữ tình, suy nghĩ về
con người và cuộc đời. Nhất là những đoạn viết về những kỷ niệm tình bạn.
Chương 10 dành cho Đinh Cường và D’ran là một chương nhiều ký ức lay đọng tâm
tình người đọc. Như Nguyễn Minh Nữu nhận định về Đinh Cường “Cái thú vị là những
kỷ niệm nào của Đinh Cường cũng là những kỷ niệm đẹp, ngát thơm từ ký ức, là những
chí tình bằng hữu cho nhau.” Với tôi, cả Đinh Cường, cả D’ran và người con của
D’ran – nhà thơ “hào sảng, chí tình“ miền Nam Nguyễn Dương Quang, cùng bức thư
cuối cùng người họa sĩ tài hoa của nền mỹ thuật Việt Nam nửa sau thế kỷ XX gửi
cho tôi ấy đã là một miền ký ức tình cờ nhưng sâu nặng khó quên…
D’ran,
tôi gọi thầm tên người họa sĩ tài hoa ở rừng Natick. Không cần phải ví dụ nữa
đâu anh Đinh Cường ơi! Tôi tin rằng từ nơi xa tít tắp đó anh đang về trên miếu
mạo đình đài rêu phong của Huế, anh đang về với ngôi trường mái đỏ của Thủ Dầu
Một, anh đang về quanh sân của nhà thờ màu hồng ở Tân Định và chắc chắn đang về
với rừng thông ngút ngàn sương khói, với mặt hồ xanh ngắt Đa Nhim, về với giàn
su xanh, về với bầy két hoang sau vườn nhà gỗ, về với cổng nhà thờ có tháp cao
Cầu Đất, về với nhà bưu điện đìu hiu Đơn Dương và về với muôn ngàn kỷ niệm bạn
bè từng qua ở thị trấn Dran... (tr.104)
Người
đọc cũng có thể bắt gặp nhiều đồng cảm ở chương 11 qua câu chuyện rất thật của
tác giả những ngày bươn chải Sài Gòn-Đà Lạt-Thủ Dầu Một-Bình Dương… “Từ một người
không liên quan gì tới mỹ nghệ, tôi bắt đầu bước vào và sống suốt hai mươi năm
bằng nghề mỹ nghệ khởi đầu từ Thương Xá Tax này.” (tr.108 ) để tồn tại sau
1975.
Khác
các chương trước, tác giả như ẩn mình đi, không phẩm bình mà cứ để sự kiện tự
lên tiếng. Nào chuyện mua bán hàng mỹ nghệ từ Đà Lạt về ở Thương xá Tax. Nào
chuyện bất đắc dĩ chuyển sang nghề cẩn ốc, làm đàn…chạy vạy từ nguyên liệu, đến
nguồn mối nguồn hàng…Cả chuyện học nghề cũng được miêu tả chi tiết “làm một sản
phẩm cẩn ốc, là phải qua 12 công đoạn: Can, Cưa, Ghép, Gắn, Vạch, Dàm, Đục, Thả,
Mài, Chà, Tách, Bóng. Mỗi công đoạn là một nghệ thuật, mà chỉ cần một công đoạn
làm ẩu, là sản phẩm thành không có giá trị” (tr.114). Chuyện bất đắc dĩ nhưng với
ông làm gì cũng dành cả tâm huyết. Đây cũng là những trang viết với kỹ thuật dồn
nén cao. Ông dẫn người đọc qua những trải nghiệm của chính những năm tháng gập
ghềnh nhất của đời mình sau 1975 một cách thản nhiên như sự đời vốn vậy thì phải
vậy. Thoảng hoặc, tinh ý, người đọc mới bắt gặp những chi tiết đan xen như cảnh
“những ngày hàng ế, không giao được, tôi chạy xe đạp lòng vòng trong thành phố.
Một nơi thường ghé lại nhất vào những buổi trưa hè là Vườn Tao Đàn. Một buổi
trưa, khi chạy xe chầm chậm loanh quanh trong vườn Tao Đàn, tôi bỗng nghe một
loạt tiếng động nho nhỏ đều đặn vọng tới, lách cách lách cách...” Nhiều từ “một”
nhưng không phải chỉ một lần ế hàng… Chỉ cần liên tưởng một chút thôi, sẽ thấy
bao nhiêu là cơ cực dồn nén mà ngòi bút ông vẫn nhẹ như đang đứng ở ngoài quan
sát và ghi nhận. Rồi quanh cái Thương xá Tax bao nhiêu cuộc đời dâu bể, kẻ mất
người còn như những thước phim chầm chậm xót xa. Điều khiến ta cảm động là từ
những câu chuyển kể có vẻ khách quan chỉ là sự kiện nối sự kiện ấy, ta lại học
được một quan niệm, một cách sống mạnh mẽ. Không lùi bước. Không nản chí. Không
đầu hàng. Vươn lên bằng chính đôi tay và nghị lực của mình. Và theo cách của
mình, những trang bút ký của Nguyễn Minh Nữu đã tự nói được biết bao điều về lẽ
sống.
Em
về đó, gửi một lời cho mộng
Cay
đắng mặn nồng ta vẫn chắt chiu
(Hay
em đừng về, quan tái biết ra sao, LGTĐ, tr.69)
Văn
phong phần 1 khá linh hoạt. Có chỗ dí dỏm: “Tình yêu là vậy đó, bao giờ cũng tiếc
nhớ một... con cá lọt lưới.” Có chỗ chỉ thuần sự kiện nối tiếp sự kiện bởi nhiều
câu ngắn, rất ngắn, dồn dập. Có chỗ là những lời thoại lẫn trong lời kể như
đang trực tiếp đối thoại cùng nhân vật. Song, sang 3 phần còn lại của tập truyện:
Thuồng luồng mắt biếc, Con trai thủy thần và Hảo hán cuối cùng ông lại chọn một
cách tiếp cận khác. Đây là các truyện ngắn có yếu tố kỳ ảo và hư cấu khá đặc sắc.
Ngòi bút của Nguyễn Minh Nữu ở thể loại này vẫn giữ lối kể chuyện tự nhiên song
có những kết hợp khá mới mẻ.
Sử
dụng bút pháp kỳ ảo, với sự hiện diện của các thế lực siêu nhiên như Thần Sông,
Thần Biển, Thần Mưa…, Nguyễn Minh Nữu không nhằm gieo cảm giác sợ hãi và khiếp
đảm như các truyện kỳ ảo nói chung khi lồng vào những chi tiết hư cấu quen thuộc
theo truyền thuyết dân gian về Con Rồng Cháu Tiên, về sự tích Núi Cấm, về chín
khúc sông Cửu Long…
Trong
Thuồng luồng mắt biếc, mở đầu với không gian bờ sông Potomac của Hoa Kỳ nhưng
tác giả lại dẫn ngược về một căn bệnh lạ được người bình dân gọi là “Mắc Đàng
Dưới” của nhân vật Trang, một cô gái hiền lành nết na những năm tháng bên bờ
sông Hậu ở Hồng Ngự Đồng Tháp Việt Nam bỗng dưng có mang... Thủ pháp đồng hiện
thông qua các sự kiện, các tình tiết hoang đường, các nhân vật đời thường lẫn
nhân vật siêu nhiên “ được kết cấu theo trình tự thời gian, xuất hiện trong nhiều
thời điểm, nhiều không gian cụ thể, cách biệt rất xa về địa lý nhưng có thật, làm
tính chất hư hư thực thực cứ quyện lẫn vào nhau. Thực tại là chuyện gia đình
ông Thái Lao sau năm năm ông đi học tập cải tạo, về Hồng Ngự sinh sống rồi định
cư tại Mỹ. Thực tại là Trang và đứa con trai của nàng nay là một bác sĩ khôi
ngô tuấn tú đang sống và làm việc bình thường như một người bình thường. Là
chuyện Lân yêu đương và khao khát tìm kiếm một cô gái đích thực của mình. Kì kì
ảo ảo là chuyện Trang té xuống nước, thoát chết, nhờ được Tử Kim Long - là một
trong 18 thần tướng của dòng sông này, mấy trăm năm trước – cứu mạng và có mang
sinh ra Lân. Khoa học tới nay vẫn chưa chứng minh được hiện tượng căn bệnh lạ
dân gian vẫn lưu truyền này. Thuồng luồng trong đời sống tâm linh người Việt cổ
là một con vật tưởng tượng, có sức mạnh siêu nhiên ở dưới nước và thường cứu
giúp thuyền bè hay con người khi lâm nạn trên sông nước. Tác giả đã khéo léo tận
dụng điều người đọc có thể biết sẵn ấy để nói lên một điều bí ẩn mà chỉ có tình
yêu đích thực mới có thể lý giải. Màu sắc nghiệp duyên trong học thuyết nhà Phật
dễ dàng được nhiều đối tượng người đọc tiếp nhận khi tác giả mượn lời vị Hòa
Thượng ở chùa Quán Thế Âm đầu nguồn sông Potomac nói với Lân và cô gái tiền
duyên thiên định của anh: “Các con tìm đến nhau và sẽ trộn lẫn vào nhau bởi vì
đó là luật sinh tồn của tạo hóa” (tr.160)
Phải
chăng tác giả muốn mượn mùi hương kinh giới lạ đặc trưng mà Lân được truyền hưởng
từ người cha rồng Tử Kim Long, từng là vật cản khi Lân đến với Thúy, với
Jenifer và chỉ hòa hợp khi gặp con gái Bạch Y Long bởi đó không phải căn bệnh
bí ẩn nào hết, mà là mật hiệu ký thác của thần linh như một thông điệp: Tình
yêu là duyên tiền định, là ngàn năm gặp gỡ. Và tình yêu đích thực là tình yêu
thủy chung tuyệt đối. Trăm dặm, ngàn dặm, đại dương mênh mông cách trở vậy mà
chỉ cần nàng gọi tên ta, Tử Kim Long, ngay lập tức ta sẽ đến bên nàng, phù trợ
nàng, bảo trợ cho con…Ôi, người hay thần linh ma quái, thế giới nào có thể thiếu
tình yêu! Phải chăng chính trong cuộc sống càng xô bồ này, con người chúng ta
càng luôn khao khát tìm được một nửa đích thực của mình, một tình yêu đẹp thủy
chung và tuyệt đối như thế.
Con
trai thủy thần cũng nằm trong hệ đề tài ấy. Nhưng Nguyễn Minh Nữu còn đưa người
đọc vào một thế giới huyền thoại sông nước phương Nam bằng những trang viết đầy
cuốn hút:
Thủy
Thần biển đông có 9 con trai, và ông Tám Rắn đó chính là người con trai thứ tám
phụ trách thông thương cho cửa Ba Thắc. Nhiệm vụ của họ là mỗi ngày đi vào đất
liền bằng chín lối khác nhau. Mỗi khi đi vào, họ hóa thân thành chín luồng nước
lớn, những lớp vảy là những con sóng bạc, khi họ đi vào là nước thủy triều dâng
lên, vừa làm lòng sông sâu thêm, vừa làm bờ sông mịn láng, và khi lên tới đầu
nguồn, họ quay về biển đông, đó là khi người ta nhìn thấy nước triều xuống.
Hàng ngày, thủy triều lên xuống tạo cân bằng cho sinh thái tự nhiên và là hoạt
động của thiên nhiên chi phối và hỗ trợ con ngừời. Những long thần này còn làm
ra những cơn mưa tưới cho vùng đồng ruộng bát ngát của đồng bằng miền Nam.
(tr.168)
Không
quá biến hóa và dữ dội như Mẹ Cả trong Con gái thủy thần của Nguyễn Huy Thiệp,
vì tình yêu, Bát Lang trong Con trai thủy thần đã tự nguyện từ bỏ giống rồng
cao quý bất tử để làm người trần gian, làm ông Tám Rắn bình thường nơi dân dã.
Chẳng những thế, để giữ tình yêu, Bát Lang còn phải chịu đớn đau không nhả viên
ngọc rồng tỏa sáng, chịu quy luật thế gian sinh lão bệnh tử để được yêu em
Lành, được sống và chết bên cạnh em Lành…Bởi chàng nhận ra phép thần thông mà
chàng có chỉ có thể giúp chàng hóa thân làm đủ mọi loài hình dáng khác nhau, xấu
đẹp, hiền dữ…. “Nhưng có một thứ chúng ta không nhân bản được, vĩnh viễn không
làm được vì ai trong chúng ta cũng chỉ có một cái hồn. Cái Hồn đó là cái bản chất
riêng tư mỗi cá thể, là cái tâm để hành xử thiện ác, và là cái mang theo trong
suốt cuộc luân hồi.” Để từ đó, với thân phận con người, nhờ có hồn người, Bát
Lang biết yêu thương, biết giận hờn, biết trách nhiệm, hiểu được thế nào là
tình yêu và chấp nhận chết cho tình yêu.
Một
dòng chảy Cửu Long cạn nhưng hai ngọn đồi bên cạnh núi Két vùng Thất Sơn – nấm
mồ của đôi uyên ương lại nổi lên như một minh chứng đẹp của tình yêu. Điều tôi
suy ngẫm mãi là quyết định của người cha. Thủy Thần đầy quyền năng có thể cải
lão hoàn đồng đó lại thuận theo những lý lẽ con trai phân giải, nghĩa là thuận
theo chữ Tâm, thuận theo tự nhiên… Gạt đi những yếu tố siêu nhiên, câu chuyện
tình cảm động của người con trai thứ tám của Thủy Thần phụ trách thông thương
cho cửa Ba Thắc cũng là một cách lý giải vì sao 9 cửa sông Cửu Long trên phần đất
Việt nay chỉ còn có tám.
Khi
mang thân xác con người, Bát Lang cũng chịu sự chi phối của quy luật con người
nghĩa là già đi, nghĩa là yếu đi, dòng nước ngày xưa chàng phụ trách mỗi ngày
ra vào từ cửa biển, nay lâu ngày không lưu thông, các gò cát phù sa từ thượng
nguồn đổ về nhô hẳn lên cao, và dòng nước hẹp dần. (tr.172)
Khoảng
thập niên 1960, cửa sông Ba Thắc đã bị bồi lấp nên sông Hậu chỉ còn hai cửa biển
ngày nay là cửa Định An và cửa Tranh Đề. Cách lý giải thật thú vị.
Hảo
hán cuối cùng tưởng đưa người đọc lùi về không gian bến nước hậu Lương Sơn Bạc
nhưng thật ra được hư cấu với nhiều ám dụ. Sự tan rã của Lương Sơn Bạc là một đề
tài lịch sử nhiều tranh cãi và suy ngẫm cho nhiều thời đại, nhiều quốc gia.
Nguyễn Minh Nữu dường như không kể chuyện các hảo hán Trung Hoa mà đằng sau những
sự kiện là những gửi gấm nói về các “hảo hán” Việt, những người mang lý tưởng
vì nghĩa quên thân. Truyện cũng làm người đọc suy nghĩ về cái chính nghĩa vì
dân trừ bạo. Qua đó, tác giả bàn luận, chiêm nghiệm về chữ “bạo’ thời nay. “Dù
rằng muốn trừ bạo thì phải dùng bạo, nhưng cái bạo của người chính nghĩa là cái
bạo lực nhân ái. Giết người không còn là lòng háo sát mà chính vì lẽ phải làm.”
Ranh giới vừa dễ vừa khó. Những hảo hán hết thời. Đêm dang dở và những lý tưởng
dang dở. Ừ. Đời sau đã tới… “có lẽ cũng chẳng lưu làm gì cái chất hảo hán gốc
Lương Sơn”.
Đọc
mà xót. Mà đau. Có lẽ nào…cái thiện không thể vượt qua cái ác? Đây là truyện mà
tôi đắn đo tìm cách giải mã nhiều nhất…song cảm giác gần như bất lực, chưa chạm
được phần chìm của tảng băng mà tác giả đã mã hóa…
Khép
trang cuối cùng, quá nhiều chất chứa, băn khoăn…
Nguyễn
Minh Nữu đã đưa người đọc qua nhiều chặng đường hơn nửa thế kỷ sống và viết của
ông với nhiều sắc màu đa dạng, nhiều cung bậc cảm nhận về cuộc đời, cách sống
và lý tưởng sống. Có vẻ ông tham lam dồn nén tất cả trong hơn 200 trang viết
này nhiều điều hơn chúng ta đọc trên mặt chữ. Có vẻ ông vẫn chưa thỏa hết những
nỗi niềm… Những thông tin ngồn ngộn về văn hóa, lịch sử, địa lý, văn học nghệ
thuật của mảnh đất Sài Gòn trong tập bút ký và truyện ngắn này làm chúng tôi
không khỏi ngạc nhiên về sức đọc, sức viết và những vốn liếng giá trị Nguyễn
Minh Nữu đã trải nghiệm. Những khuôn mặt văn nghệ sĩ Sài Gòn lần lượt xuất hiện
thật nồng ấm tình bạn. Song, điều đáng quý là tác phẩm đã truyền cho người đọc tinh
thần mến yêu cuộc sống này với tất cả mọi thăng trầm hỉ nộ ái ố của nó. Đúng mực.
Chí tình. Bút ký hay truyện ngắn. Hiện thực hay kỳ ảo. Phong cách nào cũng toát
lên ở ông tình yêu mãnh liệt với cuộc đời và cái Đẹp. Đời vô thường nhưng lòng
người bất biến, hồn người mãi theo ta để hướng con người về bến bờ Chân Thiện Mỹ.
Đáng trân trọng nhất là những suy nghĩ của ông ở chương 12 phần 1 mà tôi để
dành cuối cùng mới dùng để kết những cảm nhận về Thương quá Sài Gòn ngày trở lại
này. Sinh ra ở Hà Nội nhưng Sài Gòn gắn với ông hơn 40 năm đầy kỷ niệm buồn
vui. Nước sông Sài Gòn đã vỗ quanh hơn 2/3 cuộc đời Nguyễn Minh Nữu cho dù sông
Potomac kỳ vĩ 20 năm qua cũng không ngừng tưới tắm tâm hồn và ngòi bút ông những
nghĩ suy về cuộc vô thường. Vì thế cái lẽ Đi - Về đã trở thành những trăn trở
chi phối nhiều trang viết của tác giả.
Đi
là tìm một cái gì mới, khung cảnh mới, đời sống mới, xã hội mới và rung cảm mới.
Còn Về là được sống lại chính mình của một thời đã qua. Về là hồi sinh, là được
thoải mái thả mình vào ký ức, là gặp gỡ cảm giác non nớt của mình ngày xưa, và
rung động thực của mình bây giờ. (…) Nói cho cùng, trở về chính là nhân đôi kỷ
niệm, được sống, được thở và được vui buồn một lần nữa cái tuổi thanh xuân đã
qua của mình. (tr.135)
Một
lựa chọn đáng quý của người trí thức giữa bao dâu bể thế sự này. Đất không lành
mà chim vẫn quay về đậu dù chỉ những khoảnh khắc trong đời khi mình đã rời xa.
Về và hít thở, sẻ chia cùng Sài Gòn trong vui buồn hạnh phúc lẫn khổ đau. Như
tôi và Trương văn Dân, Elena vừa nói với nhau khi nhắc đến GS Nguyễn Đăng Hưng
và những lựa chọn của ông sau hơn 50 năm du học và sinh sống ở Bỉ. Không có quê
hương nào thật hơn quê hương trong lòng dân tộc.
Cảm
ơn tác giả Nguyễn Minh Nữu về những trang bút ký đẹp dành cho bạn bè, trong đó
có tôi. Sài Gòn của anh, của tôi, của những ai yêu mến nó sẽ mãi là điểm tựa
tâm hồn để chúng ta đau đáu trở về.
May
mà có Sài Gòn, để được nhớ được thương…
Vâng,
trở về để được nhân đôi kỷ niệm. Là sống lại lần nữa cuộc sống của chúng ta.
Hoàng Kim Oanh