Mười năm. Phải. Tôi trở về
lại thành phố mà tôi đã lớn . Những con đường. Những góc phố như ngày nào tôi
đã đi qua và nhìn thấy. Phố vẫn như cũ, chẳng có gì thay đổi sau mười năm tôi
ra đi. Không như những thành phố tôi đã trải qua. Những ngôi nhà cao từng mới
cất. Những con đường mở rộng cho những chuyến xe cơ giới nhà binh vận chuyển.
Thành phố mà tôi trở về hôm nay vẫn mang bộ mặt của một cô gái quê còn rụt rè,
nhút nhát, không chịu tô thêm chút son phấn để thành phố có một bộ mặc mới, đẹp
hơn. Nhưng dù gì trong cuộc chiến vừa qua, nó ít mang tính mỹ hóa hơn các thành
phố khác.
Nhưng ở đâu rồi cũng thế,
cũng những chiếc xe nhà binh với ngôi sao trắng chạy qua vội vã. Và, chị Khản
vẫn thường viết thư cho tôi kể về những đêm pháo kích hay những tiếng đại bác
vẫn nổ đì đùng dội về trong đêm. Những lá thư của chị như một chuyện cổ tích
ngàn lẽ một đêm, kể hoài kể mãi không hết những chuyện xảy ra ở quê nhà.
Nhưng bây giờ thì khác,
thật sự tôi đã trở về. Khi tôi bỏ cái lớp áo bên ngoài từ một thành phố rộn rịp
người ta bỏ chạy ở thị trấn Ba Ngòi. Một bà già ngồi bán nước trà nóng bên lề
đường với một cậu bé, có lẽ là cháu ngoại hay nội chi đó, giúp bà mang ly trà
nóng tới cho khách. Thấy tôi cởi giầy cởi áo bỏ lại. Bà nhìn rồi hỏi: cậu có áo
quần xi-vin không? Tôi cười: vầy cũng được mà bác. Có nghĩa là chỉ cần cái quần
xà lỏn màu cứt ngựa với cái áo thun trắng mặc trong người . Bà nói chi đó với
đứa cháu, thằng bé chạy về nhà mang ra một bồ đồ. Tôi mặc vào cụt ngủn. Thằng
bé đứng nhìn rồi cười. Tôi cũng cười theo nó. Buổi trưa ở Ba Ngòi nắng gắt.
Ngột ngạt bởi người là người từ miền ngoài đổ về. Tiếng khóc tiếng la của trẻ
con. Tiếng chửi bới ỏm tỏi từ một góc phố trên quốc lộ. Tiếng bánh xe cơ giới
rít mạnh trên mặt đường như giận dữ tạo nên một âm thanh nghe chát chúa, khó
chịu. Tôi nhìn thằng bé, nhìn bà già nói lời cảm ơn rồi đón xe xuôi nam. Thằng
bé nhìn theo, nói vói: bồ đồ của ba cháu đấy, chú mặc lấy hên. Tôi đưa tay vẫy
nó. Buổi trưa ở Ba Ngòi một lần hôm đó là thôi, và tôi không trở lại.
Chị Khản dặn: cậu đi chơi
cẩn thận, thành phố còn bất ổn lắm đó. Tôi cười: ai biết mình đâu chị. Vừa nói
tôi vừa đưa tay lấy cái nón nỉ của thằng cháu con chị Khản. Cái nón nhũn vành
vì đội lâu ngày, lụp xụp xuống vành trán. Tôi nói với chị, tôi đi. Chị hỏi: tối
về dùng cơm, chị chờ. Tôi cười cười: thôi chị ạ. Tắp vào nhà thằng bạn nào đó
rồi cũng xong. Cẩn thận. Chị dặn lại: thành phố hôm nay có những con người lạ
lắm.
Mười năm, con đường từ nhà
chị Khản xuống phố vẫn còn nhiều ổ gà. Vẫn dãy phố cổ im lìm, mệt mỏi. Bên kia
đường là khu bịnh viện. Chiếc cổng sắt đóng kín, một vài chiếc xích lô nằm chờ
khách như một thói quen mỗi ngày họ đến rồi đi. Cứ thế tôi đi suốt dọc con
đường mà tôi đi lại hàng ngày thuở còn đi học. Hàng phượng bên đường vẫn xanh
lá. Từ ngã tư bưu điện, nơi phát xuất những con đường xuống biển, ra ga mà ngày
nào tôi cũng đạp xe đi đi lại lại với lũ bạn. Tiếng cười. Tiếng chọc phá vui
ngày nào như còn đâu đây bên những gốc phượng già. Chiếc cầu sắt đen sậm bắt
qua sông thời Pháp thuộc như nhịp thở của người dân trong thành phố. Gãy đi
thời kỳ nước lụt năm nào được sửa lại cũng bằng với những thanh sắt đen sì đó.
Dòng sông với dãy phố chạy dài dọc theo con đường dẫn xuống biển. Dãy phố lầu
quét vôi vàng đã tróc lớp vôi cũ từng mảng lớn. Một bức tường chắn ngang chiếc
đầu máy xe hủ lô thời Pháp của ty lục lộ vẫn còn đặt ở đó. Mấy mươi năm rồi
khối sắt và nước sơn màu vàng đã bạc mầu.
Nhà người bạn tôi đây. Mở
cánh cổng bên hông ra nhà sau. Nước cống thải chạy dọc theo bức tường của ty
lục lộ cũ bốc lên có mùi thúi. Cửa đóng chặt. Tôi nhón người nhìn vào nhà.
Trống vắng. Có tiếng người ho trong dãy hành lang dài mờ mờ với những chiếc
thùng gỗ lớn hình tròn dùng làm nước mắm trong dãy nhà dọc đối diện với bức tường
của ty lục lộ cũ, mà khi vào tôi không để ý. Tiếng người đàn ông hỏi:
- Ông tìm ai đó?
- Dạ. Tìm anh Khanh.
- Đi hết rồi. Đi hơn tuần
nay, lúc thành phố mới lộn xộn.
Tôi nói: Vậy hả bác.
Vừa nói tôi vừa bước chân
xuống bậc cấp của ngôi nhà định đi. Người đàn ông lại hỏi vói:
- Sao cậu không đi như nhà
cậu Khanh?
- Đi đâu hả bác ?
- Thì đi chứ đi đâu. Đi
tìm một chỗ để sống. Lộn xộn mà. Mấy người nhà giàu đều đi hết. Mấy ngày nay
tôi cũng chẳng dám ra đường. Sợ tai bay vạ gió.
Tôi cười cười rồi chào ông
ra đi. Có tiếng người con gái ngồi đâu đó. Nói:
- Ba cứ nói. Không sợ!
Người đàn ông nói thêm:
- Cậu không biết. Hai hôm
trước chợ bị đốt. Tôi tưởng cả thành phố cháy theo ngôi chợ.
Tôi nói: vậy hả! Rồi đi
dọc theo bờ sông. Biển không xa, chỉ cách vài con đường. Trong những đêm thanh
vắng, ngồi trên sân thượng nhà Khanh có thể nghe từng tiếng sóng vỗ bào bờ.
Dưới sông, những chiếc thuyền đã vào bến đậu. Và ánh đèn điện leo lét dưới chân
cầu sắt đen sậm đủ để soi rõ những chiếc thuyền đánh cá từ biển vào chạy qua
cầu về trên xóm lò heo. Cái dóc cầu vẫn sáng lờ mờ như thời chiến tranh đệ nhị
sợ máy bay đồng minh thả bom. Và ngôi vườn hoa cổ trong thành phố cũng thế.
Thành phố mười năm trước
tôi ở vẫn ánh đèn lờ mờ soi không tỏ lắm trên những con đường rợp bóng me Tây
hay phượng vĩ. Và bây giờ vẫn vậy.
Thằng bạn đã ra đi. Còn ai
nữa. Tôi đến nhà vài đứa cũng cửa đóng then gài. Thành phố như vừa trải qua cơn bão lớn. Cuốn
trôi hết tất cả ra biển. Con đường chính. Phó xá đóng cửa. Rác rến ngập trên
vỉa hè. Chỉ còn vài ba ngôi nhà cửa hé
mở. Một tiệm sách vẫn còn mở hờ cánh cửa. Tiệm sách này của một ông thầy dạy
học trường tư. Tôi vào mua một tờ báo.
Nhật báo cũng chẳng có. Chỉ còn vài ba tạp chí văn học. Thấy tên của người bạn
in trên bìa tạp chí BK. Thích quá, mua ngay. Định tối về nhà chị Khản nằm dài
dưới nền gạch hoa mà đọc. Tôi hỏi ông chủ tiệm sách: còn tạp chí nào khác nữa
không? Ông ta cười méo xẹo: làm gì còn, tháng này không có báo chí chi cả.
Đường bị cắt khoảng rừng lá. Xe Sài Gòn không ra được.
Lâu, không gặp người bạn
văn này. Kể từ khi rời khỏi Tháp Chàm. Hắn đi chinh chiến biệt tăm. Tôi cũng
thế. Biền biệt chiến chinh. Thôi được, cứ đọc văn của người bạn như đã thấy
bạn. Thằng bạn nóng tính. Cái nóng của người lính bình thường khi bị xúc phạm.
Cả tôi nữa, cũng thế. Để rồi cả một chai bia không biết làm sao trút hết cơn
giận đập bể nát trên mặt bàn trong ngôi nhà tranh ở ngoại ô thành phố Qui Nhơn
mà đáng lẽ phải đập chai bia ấy lên trên đầu của người bạn thơ khi hắn mới bị
bắt về tội trốn lính. Cũng vì mấy chữ mà hắn gọi chúng tôi là lính đánh
thuê.
Rời khỏi con phố chính, đi
ngược lên dóc cầu tìm tới quán cà phê bên cạnh vườn hoa cổ. Cái quán cà phê có
tự hồi nào, lâu lắm dưới tàn cây me Tây. Ngày đó, mỗi lần về thăm phố, mấy đứa
bạn hay rũ ra đây ngồi uống cà phê, hóng gió từ dưới sông lên và nghe nhạc TCS.
Lạ, ở ngoài chiến trường về mà sao vẫn thích nghe loại nhạc này. Có lẽ cũng cầu
mong một sự an bình nào đó cho bản thân qua những dòng nhạc của ông. Thực tế và
hiện hữu. Đại bác đêm đêm dội về thành
phố. Người phu quét đường dừng chỗi đứng nghe...Chị Khản vẫn thường viết
thư cho tôi và cũng thường ca cẩm như thế. Đại bác ...dội về thành phố....,
ngồi uống cà phê buổi sáng nơi ngôi quán này, nghe bạn bè nói lại một cô giáo
đi chiếc xe PC để tới trường dạy học. Khi đi ngang qua sân quần vợt bên hông
toà tỉnh thì pháo kích. Cô giáo ngã chết bên chồng sách vở học trò của cô vừa
chấm điểm tối hôm qua. Những bông hoa tươi thắm của mấy cháu học sinh đem tới
đặt nơi cô nằm xuống. Tươi mát những đoá hoa của tình thầy trò. Bây giờ, tôi
lại đến quán này. Sân quần vợt vắng vẻ. Cô chủ quán giờ đã già hơn những năm
trước. Giờ này, cô cũng chẳng nhìn ra tôi. Bộ áo quần xi vin rộng lùng thùng.
Cái nón nỉ nhũn vành của đứa cháu. Đôi dép nhật lẹt xẹt trên đường. Chẳng ai
biết tôi là ai. Và, tôi cũng chẳng biết ai. Khi một vài thanh niên ngồi bàn bên
trong đưa mắt nhìn tôi có vẻ...khi thấy tôi bước vào cửa. Có lẽ họ nghĩ tôi như
chị Khản đã nói: Thành phố hôm nay có nhiều kẻ lạ. Bởi vì, khi tôi mới bước
chân vào quán, họ im lặng và sửa lại thế ngồi. Tôi lạ lắm sao dưới vành nón nỉ
lụp xụp như thế này?
Nắng chiều trải trên những
ngọn cây trong công viên. Gió dưới sông thổi lên mát. Ngôi quán trở nên xa lạ
một cách lạ lùng. Đâu rồi những người bạn một thời cà phê thuốc lá. Đâu rồi
những buổi sáng ngồi uống cà phê nghe chim sáo hót trên những tàn cây cao trong
công viên. Đâu rồi những hoa vông nở rộ đỏ thắm trên cành. Những buổi sáng đẹp
trời lạ lùng với những đứa bạn... Tôi trả tiền ra đi, cô chủ quán ngồi bó gối trên
cái ghế bành bện bằng những sợi dây mây, tôi thấy những ngón chân của cô nhịp nhịp trên thành ghế với lớp sơn móng
chân đỏ tróc ra trông nham nhở. Cô chủ quán cũng chẳng nói chẳng rằng. Có lẽ cô
cũng nhìn tôi: thành phố có nhiều kẻ lạ.
Rời quán, định đi về nhà
chị Khản, nằm dài dưới nền gạch đọc cái truyện của người bạn trong tờ tạp chí
vừa mới mua. Nhưng rồi tôi đi dọc theo bờ sông ngược lên đầu nguồn đến một xóm
chài. Phải rồi. Bạn bè đã bỏ đi. Hi vọng còn
một người bạn đang tu trên chùa. Tôi tìm đường lên động cao. Dưới chân
động là xóm chài và dòng sông uốn quanh. Bóng chiều ngã về phía Tây. Mặt trời
đỏ ối trên những đám mây chiều u uẩn. Những ngôi nhà sàn. Những người con gái
đang vá lưới, nhìn tôi: thành phố có nhiều kẻ lạ. Tôi tìm đường lên chùa. Những
người con gái này như mối ăn ánh đèn đêm. Tối xuống là áo quần nhiều màu
sắc lượn phố cười nói ồn ào trên đường
hay vào rạp xem cải lương. Tôi biết như thế mười năm về trước.
Đường lên chùa, ẩm nước.
Những dòng nước vẫn rỉ ra hàng ngày hàng đêm từ trong động chảy ngoằn ngoèo ra
sông. Đường lên chùa đã xây bằng những bậc cấp, dễ đi. Đứng trước cổng tôi ngần
ngừ nên vào hay trở ra. Giờ này, có lẽ sắp công phu. Nhưng, người bạn tôi đã
thấy. Chiếc áo nâu sòng di chuyuển từ bậc thềm đi ra cổng:
- Ông mới về?
Tôi dở cái nón nỉ xuống
cầm trên tay, vái một vái.
- Vâng! Thầy mạnh giỏi.
- Vẫn mạnh. Còn ông?
- Lo!
Ông cười.
Bây giờ chúng tôi không
phải là những thằng bạn khi xưa nữa. Ngày nó vừa học xong trung học, nó bỏ đi
tu. Không còn mầy tao như ngày nào thả rong ngoài ruộng để chơi những trò chơi
của trẻ con nữa, mà hôm nay tôi phải xưng hô đàng hoàng hơn.
- Lo cái gì? Thầy hỏi.
- Đủ thứ!
- À! Tôi hiểu rồi: cái có
và cái không của ông hôm nay phải không? Ông lại cười. Nụ cười đôn hậu.
Tôi nói thầm trong bụng: chán bỏ mẹ khi tới thăm ông. Nhưng còn
ai nữa đâu khi mười năm tôi trở lại thành phố này. Chúng nó đã bỏ đi hết rồi.
Chỉ còn tôi với ông là bạn cũ.
- Thầy cứ nói. Sao lại
không lo. Thầy khác. Tôi khác. Khi mà...
- Tương lai của ông đã
mất...?
- Không phải thế. Tôi..sợ
việc khác...
Thầy nhìn xuống dòng sông,
cười:
- Địa ngục. Thiên đàng.
Khổ. Sướng chứ gì? Này ông: địa ngục chẳng có mà thiên đàng cũng không. Đừng
lo. Tất cả là huyễn hết. Ông vẫn an nhiên tự tại. Ngày hôm nay có khác hơn ngày
hôm qua. Nhưng ông vẫn là ông tự tại trên cõi đời này. Cõi đời này có mà không,
thì ông lo nghĩ làm gì cho bạc tóc.
Rồi ông nắm tay tôi, nói:
- Vào đây.
Trên lối đi vào chùa,
những bông sứ trắng rụng đầy. Một mùi thơm thoang thoảng trong không gian chiều
xuống. Mặt trời vẫn ửng đỏ trên dòng sông. Tôi và ông ngồi xuống trên băng đá,
dưới những tán bông sứ. Dưới chân đồi, dòng sông vẫn chảy không ngừng. Và, cái
làng chài nhỏ bé kia vẫn có cuộc sống như ngày nào, dù cho bạn bè tôi có bỏ đi.
Sông và làng chài vẫn hiện hữu. Tôi và người bạn tu hành vẫn còn đây trong
thành phố mà tuổi thơ của tôi và ông vẫn còn chất ngất hương thơm. Như mùi hoa
sứ hôm nay trước sân chùa.Ông nói:
- Ông có thấy gì không?
- Thấy gì?
- Mùi hoa sứ.
- Có nghe thấy.
- Đấy. Mười năm, ông chinh
chiến, có khi nào ông để tâm mà nghe cái mùi rất đơn sơ này không? Tuổi nhỏ của
ông và tôi hay đi nhặt những hoa sứ này trong ngôi vườn của một ông Tây trên
toà sứ. Lúc ấy bọn mình ngỡ là bình yên. Bây giờ ông ngồi lại đây với tôi và
ông đã thấy ông.
Tôi cười nhìn xuống dòng
sông.
Người bạn tu hành của tôi
nhìn về chân trời phía Tây đỏ ối ánh mặt trời chiều. Nói. Giọng nói nhẹ tênh
trong hơi thở: ông đừng bỏ đi đâu nữa. Tất cả rồi cũng là không. Ông nhé.
Tôi nhìn người bạn tu
hành. Vái một vái. Xuống động cát rời chùa. Sau lưng tôi, vẫn còn nghe thấy
hương thơm của hoa sứ và tiếng chuông chùa ngân.
Phạm Văn Nhàn
Tháng 4.1975