ĐỖ XUÂN TÊ
Cảm
nhận nhân đọc
“Năm
Chữ Ngàn Câu”
của Nguyễn Lương Vỵ
của Nguyễn Lương Vỵ
Khi chưa cầm được tập thơ trong tay, ý
nghĩ ban đầu theo vô thức tôi cứ tưởng ai đó đã xếp chữ lầm tựa đề của tập thơ Năm Chữ Năm Câu của nhà thơ Nguyễn Lương
Vỵ xuất bản hồi đầu năm 2014. Nhưng rồi vào thăm mấy trang nhà, cái tựa vẫn đập
vào mắt tôi và không còn nghi ngờ gì nữa, đây là tập thơ thứ 9, Năm Chữ Ngàn Câu, một thi phẩm hoàn toàn
mới.
Xét về góc độ thời gian, sự ra đời hai
tập thơ trong vòng một năm là một thành quả sáng tác đáng chú ý, nhưng nhìn lại
tuổi tác của nhà thơ, chia theo bình quân, bảy chín 63 thì bảy năm mới có một tập
thơ. Hay làm con tính nhẩm 45 năm làm-thơ (chứ không phải mần-thinh) thì năm
chín 45, năm năm một tập vẫn chưa phải là nhịp độ sung mãn.
Nói vui thì như vậy, nhưng nhìn lại
hành trình 45 năm Thơ của Nguyễn Lương Vỵ, nhà thơ Du Tử Lê sau khi đọc Năm Chữ Ngàn câu đã có những nhận xét rất tinh tế, không xếp anh tài năng ‘nuớc rút’ hay ‘đường
trường’ theo khái niệm của Nguyên Sa mà
theo tôi diễn nghĩa thì tác giả Khúc Thụy Du ý muốn nói từng bước “bứt phá kiến tạo một hướng đi lẻ, hiếm… làm
cho các thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ là một đầu tư trí tuệ cật lực, mở vào những
chân trời mới… một thao-thiết mở ra những cánh cửa khác, cho ngôi nhà thi ca của
mình.” Nhà thơ đàn anh không quên khen tài dụng chữ của người thơ ít tuổi
hơn về thể thơ Ngũ ngôn mà Nguyễn Lương Vỵ đã dày công vận dụng một cách tài
hoa.
Theo tôi, cứ theo hướng đầu tư này dù
đến tập thơ thứ 9 vẫn chưa hẳn là đỉnh điểm, vẫn tạo sự mới lạ, sự sáng tạo,
tính uyên bác về câu về chữ về ý về tứ, tính cao-sâu trong ngôn từ, tính tượng-hình
trong tư tưởng qua hành trình một Đời Thơ của người thi sĩ đất Quảng nam mà
16 tuổi đã có những vần thơ năm chữ, như
bài thơ Cảm Ứng:
Biển
đắp một tòa sương
Lạnh
đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Nàng tắm trong tịch dương
Núi
gầm lên khóc nhớ…
Anh cũng là nhà thơ còn sót lại của thế
hệ sanh ở nửa thế kỷ sau, khi có vốn chữ Hán đạt độ thâm sâu nâng lên hàng dịch
giả, chính vậy mà thể thơ năm chữ (rất phổ biến trong cổ thi) có làm tới ngàn
câu cũng vẫn đủ sức thu hút độc giả được thể hiện rõ nét trong cả hai thi phẩm
sau này ở tuổi 62.
Nói cho ngay, hai tập thơ cách nhau 9
tháng không có nghĩa 50 bài thơ của tập sau đã được soạn vỏn vẹn chưa đầy ba
trăm ngày (với một vài nhà thơ trẻ tôi đã thấy hiện tượng này) mà tự nó, khi có
dịp đọc, rồi đọc lại, người đọc sẽ hiểu nó đã được thai nghén, mài dũa, hiệu
đính, bổ sung, cân nhắc từ những năm tháng nào đó trong suốt cuộc hành trình khổ
nạn vì Thơ.
Dù tuổi đời hiện giờ ở tuổi 63, từ nhiều
năm qua, đọc thơ anh và bút hiệu tên anh, tôi vẫn tưởng tác giả là người của thế
hệ thất thập. Nguyễn Lương Vỵ, một nhà thơ già trước tuổi, cả tuổi Thơ lẫn tuổi
Đời. Vì thơ, anh đã đánh đổi đời mình bằng những vần thơ ứa máu. Bằng thơ, anh
đã cung hiến cho người những tình tự nhân gian.
Ta hãy tìm tập thơ có hình bìa Hoa ổi
(do nxb SỐNG in ấn rất trang nhã), xem và ngẫm. Với tôi cùng nhiều độc giả
không dám đi vào đánh giá theo cách nhìn chuẩn mực của những thi tài lớn, mà chỉ
xin đôi điều cảm nhận để hiểu thêm anh là ai, thơ NLV từ đâu đến, cùng lý giải vì
sao trong tập thơ có nhiều bài thơ Không Đề mà tập thơ thứ 9 nầy có tới 9 bài, gây cho độc
giả như tôi vừa phải suy tư dự đoán vừa ngộ nghĩnh đặt cho những tác phẩm của
anh như ‘những vần thơ không tên’ và thi phẩm mới nhất … Tập Thơ Không Tên số 9.
Không hề dấu diếm, tôi vốn yêu thơ
Nguyễn Lương Vỵ hơn chục năm trở lại đây khi đọc những bài thơ rời ông gửi đăng
trên một số trang mạng văn học, rồi qua những bản dịch sâu sắc bằng tiếng Anh của
một chủ bút nhật báo và cuối cùng là bản dịch ba bài thơ cổ chuyển từ chữ Hán,
chùm thơ mùa thu của Trần Nhân Tông. Duyên tình như bén, biết anh cùng quê với
Trần Yên Hòa, tình cờ khi ngồi bên quán cà phê, qua cú điện thoại của chủ trang
BVN cho biết tác giả đã gởi tôi tập thơ và chờ vài ngày sẽ tới.
Tâm lý người đọc bao giờ cũng hạnh
phúc khi được tác giả tặng sách, dù chỉ là chữ ký khi đứng chờ buổi ra mắt
sách. Nhưng việc gởi tặng cũng là công đoạn rất đa đoan cho những tác giả nhiều
mối giao lưu. Nhưng với tôi có thể vì anh vui khi đọc những nhận xét qua ba bài
thơ anh dịch của vị vua nổi tiếng đời Trần (thích thú là đã được post lại trên
nhiều trang mạng hải ngoại). Duyên văn nghệ xuất phát từ các website ấy vậy mà
hay, chẳng vậy mà Đinh Cường dù chưa một lần giáp mặt cũng gởi cho tôi cả một
Đoạn ghi bằng thơ trân trọng những gì tôi đã viết về các nghệ sĩ.
Trở lại “Tập thơ không tên số 9” mà
tôi ví von cho vui như thế, Năm Chữ Ngàn
Câu, lần này ra mắt như một sự trân trọng bạn đọc nhân dịp 45 năm ‘chung thủy’ với Thơ từ thuở một
thư sinh phải lòng với câu, với chữ đến khi tóc
bạc òa bay giữa trần gian, được hiểu như một Lời tự sự của tác giả, một
cách bộc bạch những tâm tư thầm kín pha nỗi u hoài nhuốm niềm u uẩn vốn đã tích
tụ ẩn chứa trong anh từ những năm tháng điêu linh trên quê hương (mà Tam kỳ/Quán
Rường là mảnh đất chịu nhiều bất hạnh) để những bậc thầy, cha, chú của anh, bạn
bè, người thân, bạn văn của anh, người âm kẻ dương, người vai trên kẻ vai dưới,
người đương thời người tiền bối, người chốn quê, nơi đất trích hiểu được tấm
lòng của anh và với những bạn đọc - mà anh luôn trân trọng - hiểu được Thơ anh.
Tôi ít khi để cảm nhận và phê bình của
các cây bút khác ảnh hưởng đến cảm xúc của mình khi bày tỏ những góp ý với các
tập thơ tập truyện vừa ra mắt, chủ ý là để giữ sự suy nghĩ độc lập tránh sự
trùng ý với người đi trước, nhưng lần này tôi đã làm trái ngược và thích thú gạn
lọc vài nhận xét rất hay của mấy bạn văn và người thơ tác giả thân quen. Đây
cũng là một biểu cảm tế nhị thể hiện mối giao lưu tác giả-độc giả, độc giả-độc
giả thường thấy trong sinh hoạt văn học hải ngoại nhiều năm trở lại đây.
Tôi tâm đắc với Tô Đăng Khoa, có lẽ là
người đã đọc bản thảo trước khi in và trở thành Lời bạt sau khi in. Ông viết rất
tự tin do có những quan hệ gần gũi với tác giả (bài thơ đề tặng đầu tiên, tác
giả đã dành cho ông) đã dẫn dắt tôi đồng cảm với nhiều nhận xét tinh tế, đặc biệt
phần trích dẫn những vần thơ nguyên bản của Năm Chữ Ngàn Câu, tôi ngẫm lại sao
có sự trùng hợp chi lạ với độc giả trình độ thẩm thơ còn hạn chế như tôi.Tôi chỉ
bổ sung, còn nghĩa dân gian là làm ngơ trong khái niệm ‘mần thinh’, một thương
hiệu mới của người-thích-mần-thơ.
Người thứ hai là nhà thơ Lê Giang Trần,
ông đọc hộ và khái quát tài tình cả một phần tư số trang của tập thơ khi kết hợp
nhuần nhuyễn bước chân thi nhân qua những chuyến đi thăm đi dạo một vòng nhân
gian, tạm trích,
“Ông
thăm mẹ, thăm con mình, thăm một số bằng hữu, thăm từ đường, thăm mộ ông năm sạn
ở quán rường, chiều uống rượu với võ chân cửu ở bảo lộc, thăm sơn núi ở bảo lộc,
trở lại đà lạt, gặp lại thi sỹ trần xuân kiêm ở sài gòn, trưa ở chùa linh ứng,
đêm thả bộ một mình trên phố sông hàn, hát khẽ bên mồ (em trai), ông thổi kèn
ma tháng tư, khuya ở ngả năm gò vấp, tặng cho em gái màu nắng cũ, tiễn biệt nhà
văn nguyễn xuân hoàng… và ở trong một chiều-không-gian hay chiều-thời-gian nào
đó, thi nhân tự cười lên tiếng hống của con sư tử...”
Có một ý chung nổi lên như một cảm nhận
cốt lõi của cả ba nhà thơ (kiêm bạn đọc) là họ đều bàn nhiều về những bài thơ…Không
Đề. Tôi cũng không là ngoại lệ và phần tôi xin biểu lộ theo hướng dưới đây.
***
Trước hết nói về Thơ, trong lời mở đầu
mà thi nhân đã hạ mình dùng chữ Lời Thưa, Nguyễn Lương Vỵ đã tự hỏi,
“Thơ?
Câu
hỏi đã từ rất lâu, không lời vọng lại hồi đáp
Câu
trả lời vẫn còn im lắng, ngất xanh trong những giấc mộng dị thường
Thơ?
Tiếng
nói trong trẻo trong veo nhất của Con Người trên trần gian này. Có phải như vậy
chăng?”
Không dám chắc, câu hỏi bỏ lửng, câu
trả lời còn đi trốn, nhưng anh cũng thử tạo ra một tiến trình hình thành cho
thơ khá độc đáo,
“Âm
sắc cất lên Tiếng Nói, thổi hồn vía vào Chữ, đọng lại, hòa âm, tan và bay đi
thành Thơ,”
Và ta không thấy lạ khi tác phẩm đầu lấy
tên Âm Vang Và Sắc Màu mở đường cho
những tập thơ sau chỉ toàn Âm với … Âm (nhà thơ nữ Nguyễn Thị Khánh Minh có tặng
tác giả bài thơ ĐỘC HÀNH tóm gọn những câu chữ của tác phẩm đã ấn hành và theo
tôi có lẽ là một trong số ít bạn thơ họ hiểu nhau theo mối quan hệ Bá Nha -Tử Kỳ
trong thơ văn).
Trong phần đầu của tập thơ, tác giả
dùng những bài thơ như món quà tặng cho các bạn văn và người thân, tạm goi là
những người dương. Phần sau như một chiêu niệm những người âm dưới dạng Phụ lục.
Kẹp giữa là các chuyến đi như Lê Giang Trần khái quát. Bản lề khép mở phân chia
cuốn sách là những bài thơ Không Đề dành cho các độc giả đánh cược với thơ. Phải
nói là tập thơ này tôi đọc khá kỹ theo trình tự của mục lục, sẽ còn đọc lại
theo ngẫu hứng từng bài và đây mới là cái thú khi thẩm thơ cho những độc giả ở
tuổi về chiều.
Hình như thơ Nguyễn Lương Vỵ thiên về
âm nhiều hơn dương, nhiều bài thật buồn và tôi hoàn toàn đồng thuận với cô tiểu
thư, con gái anh,“thơ ba làm rất hay
nhưng…buồn quá!”
Cả tập có độc một bài xuân, nhưng anh
vui vì có mẹ, Nắng Xuân Phân như là
con đò đưa anh về miền thơ ấu,
Mắt
xa xăm mờ tỏ
Con
về là Mẹ mừng
Nắng
xuân phân rưng rưng
Vai
gầy thêm tuổi hạc
…
Kể
chuyện nữa đi Mẹ
Chuyện
chi con cũng nghe
Chuyện
chi mô rứa hè
Gịong
Quảng Nôm giòn rụm…
Tứ
Tấu Khúc Bên Thềm Nắng Cũ, bài thơ như một cuộc trò chuyện với
cha, với chú nơi cõi âm đậm đà với âm với sắc,
Câu
thơ níu lửa sinh linh
Chôn
hết sắc màu
Chôn
hết âm vang chiều lá mục
Tiếng
kêu sương ủ kín vết thương tâm…
Nắng
Dương Cầm,
tưởng niệm Quỳnh Giao là một bài thơ thật hay được post lại trên nhiều trang mạng
đọc hoài vẫn cứ rưng rưng,
Tháng
bảy nắng dương cầm réo rắt
Ngón
tay người nở một trời bông
Bông
biêng biếc bông trắng ngần tâm tướng
Hạc
vàng bay hay hồn người mênh mông…
Trăm
Năm Hàn Mặc Tử,
được coi như một bài thơ chiêu niệm gồm đúng 100 câu năm chữ in lại trên tập
thơ này, Nguyễn Lương Vỵ góp phần đưa nhà thơ tài hoa bạc phận lên hàng chân
dung bất tử trong thi ca nhân kỷ niệm trăm năm ngày sanh của ông.
Khép lại phần Cảm nhận nhân đọc một tập
thơ, người viết chọn Không Đề III, một chân dung tự họa của nhà thơ nhân tuổi
62,
Ngó
lên thấy cái vút
Nhìn
xuống gặp cái vù
Mừng
ta ngày càng khù
Tiếng
cu gù ướt nắng
Lời
chiêm bao văng vẳng
Giọng
em cười trong veo
Suốt
đời ta mang theo…
Và thực sự đi vào phần kết với Không Đề
IX
Mần
thơ như chết khát
Ực
hết tình em trao
Nốc
hết cõi chiêm bao
Nuốt
hết đời oan nghiệt
…
Cho
đến hơi thở cuối
Vẫn
mần-thinh-mần-thơ…
Xin mời bạn đọc hãy cùng tôi ta tìm tập
thơ để nhìn Hoa ổi và Vệt nắng bên hè tâm tình với người làm thơ ‘đến hơi thở
cuối’.
Đỗ
Xuân Tê
California,
tháng
1.2015
Ghi
chú:
Năm
Chữ Ngàn Câu, tập thơ thứ 9 của Nguyễn Lương Vỵ,