THÂN TRỌNG SƠN
Học nghề dạy học
(Nhớ về khóa không tên
1963-1967)
Đại Học Sư Phạm Huế
Chuyện
cũng đã nửa thế kỷ, tính từ năm 1963, bắt đầu khoá đào tạo 4 năm tại Trường Đại
Học Sư Phạm Huế, một khoá học có nhiều đặc điểm đáng ghi nhớ.
Điều ghi nhận đầu tiên là 5
năm sau ngày
thành lập, từ năm học
này, trường chính thức
chuyển về địa điểm mới, trong khuôn viên
Toà Khâm cũ, bên
bờ sông Hương. Một năm trước đó, chúng tôi còn
học trung học,
sáng chiều đạp xe qua cầu
Trường Tiền, nhìn
công trình
đang xây dựng, kiến trúc tân kỳ, cơ ngơi đồ sộ, lại nghe nói do Kiến trúc sư
Ngô Viết Thụ thiết kế, lòng
nao nức hy vọng trường sẽ xây xong kịp lúc mình đỗ Tú tài để vào học. Cầu được ước thấy, tháng 7 còn dự thi tuyển bên trường cũ, Khu Morin, vào
học năm đầu tiên tại
đây và năm học sau thì được xông đất toà nhà ngôi
sao ba cánh, mái ngói mới, tường vách
mới, bàn ghế mới.
Điều đặc biệt thứ hai :
đây là khoá đầu tiên với thời gian đào tạo 4 năm, thay vì 3 năm như các khoá trước. Lúc thi vào trường, chúng tôi không hề biết có sự thay đổi này. Nhập học được ít lâu mới nghe thông báo năm thứ nhất nay gọi
là Dự Bị Sư Phạm. Thực ra, so với các trường bạn, có Dự Bị Văn Khoa, Dự Bị Y
Khoa, thì mình học thêm một năm cũng hợp lý. Chỉ ấm ức một chút là các bạn vào trước mình một năm, sẽ ra trường đi dạy trước hai
năm. Về sau mọi người thấy
yên tâm hơn khi nghe
Thầy Khoa Trưởng giải thích:
" Việc cải tổ Đại học Sư phạm sẽ đánh dấu cho một bước tiến dài trong ngành giáo dục trung học ở Việt Nam. Từ rày về sau, các giáo sư trung học tốt nghiệp Đại học Sư phạm sau thời gian học 4 năm sẽ có một kiến thức vững chắc
về ngành chuyên môn của họ, và sẽ được huấn luyện về phần sư phạm. Ngoài phần trí dục, Ban Giám đốc sẽ chú trọng rất
nhiều đến phần đức dục và thể
dục. Tham vọng của Ban Giám đốc là không
phải chỉ đào tạo nên "những người đi dạy" mà là đào tạo "những nhà giáo" với tất cả ý nghĩa bao hàm trong danh từ này."
( Giáo Sư Khoa Trưởng trả lời phỏng vấn, trích đặc san Hướng Đi của SV Dự Bị Sư Phạm, Xuân 1964 - trang 89
).
Bốn niên
khoá của khoá học này,
trường được điều hành
bởi bốn vị Khoa trưởng khác nhau:
1963-1964: Giáo sư Lê Văn
1964-1965: Giáo sư Nguyễn Hữu Trí
1965-1966: Giáo sư Tôn Thất Hanh và Giáo
sư Nguyễn
Hữu Trí
1966-1967: Giáo sư Lê Trọng Vinh.
Điều đáng ghi nhận thứ ba là không hiểu tại sao trong suốt khoá học
không hề thấy quy định sinh viên
mặc đồng phục. Thời học sinh, thấy các anh SP chững chạc trong bộ complet màu bleu marine trông oai quá, đến thời mình thì không
còn. Mà cũng lạ, cuối khoá không hề có lễ tốt nghiệp để diện bộ lễ phục truyền thống, áo thụng, mũ rộng.
Chỉ có một buổi họp mặt tại Toà Viện
trưởng để làm
thủ tục chọn nhiệm sở. Từ chuyện
không có lễ tốt nghiệp
kéo theo chuyện khoá 1963-1967 này
không hề được đặt tên.
Cần nhớ là các
khoá đầu tiên
đều có tên:
1959, Chu Văn An, 1960, Nguyễn
Trãi, 1961, Nguyễn Trường Tộ, 1962, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
1963, Nguyễn Du, 1964, Nguyễn Công Trứ. Các khoá sau cũng đều có
tên: khoá 1969 được mang tên Nguyễn Khuyến, khoá 1970 là Phan
Chu Trinh, 1971, Phan Bội Châu, 1972, Nguyễn Đình Chiểu...
Đành phải gọi là khoá 1967 vậy. Vào thời điểm này, trở thành sinh viên Đại Học Sư Phạm vẫn là mơ ước của nhiều người, có học bổng, ra trường
được bổ dụng chính thức ngay, được hoãn
dịch, lương cao. Sướng nhất trần đời. Khoá này, trường chỉ tuyển vào 5 ban: Việt, Anh, Pháp, Toán và Lý Hoá. Tuy chỉ cần có Tú Tài 2 là dự
thi được nhưng một số bạn đã có một,
hai chứng
chỉ Văn khoa hay Khoa học
vẫn xin thi vào.
Có 431 thí sinh dự thi
vào ngày 4-7-1963, đa số là học sinh các tỉnh miền Trung, Quảng Trị, Huế, cũng có bạn
từ xa, Phan Rang, Nha Trang, cả Saigon, Đalat dù hai nơi này đều có trường đại học. Mới đậu Tú Tài xong, bỡ ngỡ đặt chân vào Giảng đường C Khu Morin rộng mênh mông, đối mặt với các
môn thi như thế này,
hẳn không phải là thử
thách dễ chịu:
Ban Việt Hán:
- 1 bài
luận văn chương (4 giờ)
- 1 bài giảng văn và văn học sử (3 giờ)
- 1 bài
dịch ngoại ngữ (Pháp văn
hoặc Hán văn) ra Việt ngữ (2 giờ).
Ban Anh văn :
- 1 bài
nghị luận luân lý hoặc văn chương (4 giờ)
- 2 bài
dịch ( Anh- Việt và Việt
Anh) (3 giờ)
- 1 bài
test ( về Văn phạm, Ngữ vựng và Giảng văn)
(2 giờ).
Ban Pháp văn
:
- 1 bài
nghị luận văn chương (4 giờ)
- 2 bài
dịch ( Pháp - Việt và Việt
- Pháp) (3 giờ)
- 1 bài
test ( về Văn phạm, Ngữ vựng và Giảng văn)
(2 giờ).
Đậu kỳ thi viết xong còn phải thi vấn đáp. Kết quả có 160 người trúng tuyển :
Ban Việt Hán. : 22
sinh viên
(2 SV không có học bổng)
Ban Anh Văn. : 25
sinh viên
(3 SV không có học bổng)
Ban Pháp Văn. : 24
sinh viên
(2 SV không có học bổng)
Ban Toán. :
44 sinh viên
(14 SV không có học bổng)
Ban Lý Hoá. :
35 sinh viên
( 9 SV không có học bổng)
Không phải tất cả 160 người trúng tuyển đều nhập học, có người đổi ý kiến, có người xin chuyển được vào ĐHSP Saigon, hoặc trúng tuyển vào trường khác, có người rút lui vì không
có học bổng. Đối chiếu
với số SV tốt nghiệp
ra trường 4 năm sau mới thấy sự sàng
lọc cam go, nghiệt ngã đến chừng nào.
Ban Việt Hán:
13 SV tốt nghiệp ( so với 22 trúng tuyển nhập học )
Ban Anh Văn: 10
SV tốt nghiệp ( so với 25 trúng tuyển nhập học )
Ban Pháp Văn: 9
SV tốt nghiệp ( so với 24 trúng tuyển nhập học )
Ban Toán.
: 11 SV tốt nghiệp ( so với 44 trúng tuyển nhập học )
Ban Lý Hoá.
: 18 SV tốt nghiệp ( so với 35 trúng tuyển nhập học )
Có nhiều lý do của
việc "vào
nhiểu ra ít" này
nhưng phổ biến nhất là không vượt qua được kỳ thi lên lớp cuối mỗi năm học. Có bạn bị trễ một,
hai năm, có bạn chuyển qua ngành
đào tạo giáo sư trung học đệ nhất cấp, cũng có bạn phải bỏ cuộc.
Học ban C (văn chương-sinh ngữ) ở trung học, tôi thấy mình có thể dự thi vào các ban Việt, Anh hay Pháp. Nhưng khi nghe tên gọi ban Việt Hán tôi sợ ngay vì nghĩ mình khó học giỏi được chữ Hán. Anh văn cũng
hấp dẫn, tuy chỉ là sinh
ngữ
2 của tôi nhưng năm đệ nhất tôi đã học đến lớp 12 của Hội Việt Mỹ, chuẩn bị thi
bằng Proficiency, và khi
đậu Tú Tài,
tôi cũng lấy được bằng này. Cuối cùng tôi quyết định thi vào ban Pháp văn vì tình
yêu của tôi với ngôn
ngữ này được cha tôi và thầy tôi vun đắp và truyền lại từ nhiều năm tháng. Cha tôi mất
sớm, không kịp dạy
tôi một chữ tiếng Pháp nào, nhưng những trang nhật ký và tuỳ bút viết bằng tiếng Pháp ông để lại, ý tứ sâu sắc, văn
chương bay bổng, diễn đạt chuẩn
mực, khiến tôi có
cảm tưởng như là cha
muốn nhắn gởi cho đứa
con lúc
đó chưa biết nói hãy
cố gắng nối gót cha. Còn thầy tôi là Thầy Phạm Kiêm Âu, dạy tôi lớp đệ nhất C Quốc Học, uyên bác và độ lượng, dí dỏm và nghiêm khắc, cho tôi hình ảnh của một thầy giáo vẹn toàn cả tài lẫn đức. Thầy có một biện pháp khích lệ học sinh rất độc đáo: đem bài tập làm văn hay nhất của học sinh Quốc Học sang đọc và giới thiệu cho học sinh Đồng Khánh ( lúc này Thầy dạy cả hai trường).
Quyết định thi vào ban Pháp văn không phải là dễ dàng vì một áp lực tâm lý lớn. Nói gì thì nói,
tôi cũng chỉ là học sinh trường Việt, địch sao nổi với các bạn trường Tây. Không Yersin thì cũng Pascal, không Providence thì cũng Pellerin, chí ít cũng đã từng rèn
luyện
ở Tiểu chủng viện,
Đại chủng viện nào đó. Nhưng rồi tôi cũng cố gắng thử sức, đậu thi viết, vào vấn đáp với Thầy Đỗ Long Vân, thầy khen mấy câu làm tôi tự tin hơn. Thứ hạng trúng tuyển (2/24) giúp
tôi xoá được mặc cảm. Vào
học rồi mới biết cũng có bạn là dân
trường Việt như tôi.
Các giáo sư người Pháp là những người thầy ngoại quốc đầu tiên tôi được học, tiếc là bây giờ tôi không còn nhớ gì nhiều. Cô Martine Piat ( vẫn gọi là Mademoiselle dù đã lớn tuổi), quen thuộc với chiếc xe Citroën, dạy môn Ngữ âm. Thầy Bonzon dạy Giảng văn. Đây là hai giáo sư thường làm nhiều SV buồn rầu vì điểm liệt (note éliminatoire) 8/20. Thầy Bolliet, hay ngồi trên bàn
để khoe đôi giày da cùng
màu với cravate, hai
thứ thường xuyên thay đổi. Cha Oxarango dạy tiếng latin, hiểu cha là linh
mục hay cha là bố
cũng đúng. Thầy Cauro dạy
môn gì không rõ, nửa như văn chương, nửa như văn minh, thỉnh
thoảng đưa các tác phẩm hội hoạ chiếu lên
màn hình rồi bình luận. Thầy thường mời sinh viên
đến nhà, cho ăn uống, nhảy nhót, tiếp
đãi như bạn bè,
hôm sau đến lớp thì thầy
ra thầy, trò ra
trò trở lại. Có một thầy
rất trẻ, tên
cũng trẻ, Rossignol, không
biết từ đâu tới, dạy môn
Conversation(?), không nhớ có giúp chúng tôi đàm thoại giỏi hơn không, nhưng các bạn mê kịch thì rất hài
lòng vì được
thầy hướng dẫn diễn kịch tiếng Pháp, vở Antigone, mang sang diễn bên giảng đường C.
Các giáo sư người Việt, trước hết là Thầy Lê Nhựt Thăng, dạy văn phạm, nhớ câu ví dụ Thầy hay nhắc: " Pour grands que soient les rois, ils sont ce
que nous sommes". Dạy Anh văn có Thầy Phạm Văn Ấm và Cô Bảo Xuyến, phu nhân Giáo sư Lê Văn, dịu dàng và quý phái. Cô dạy tiếng Anh và giảng bằng tiếng Pháp, SV rất thích học. Bà Hoàng
Thị Chí, phu nhân Giáo sư Nguyễn
Quới, dạy Giáo học pháp. Một sự ngạc nhiên
thú vị cho tôi là được gặp lại Thầy Lê Khắc
Phò, dạy tôi Sử Địa lớp
đệ nhất. Ở Đại học Thầy dạy môn dịch. Tôi không còn nhớ dịch Pháp- Việt học những gì, thích nhất là những bài dịch Việt-Pháp. Lúc nào cũng một trang in ronéo, trích tác phẩm văn học.
Những bài
như thế này
thì anh nào giỏi nhất cũng toát mồ hôi:
Bà Trưng quê ở Châu
Phong,
Giận
loài tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân...
Có bài
phải đầu hàng
ngay từ cái nhan đề, chẳng hạn bài "Am chúng sinh". Không tham khảo chỗ nào để dịch cho ra, cả lớp ngẩn ngơ và thán phục khi Thầy cho lời giải: "Pagodon aux âmes errantes". Tôi học ở Thầy cái cách tìm
cho ra một lối diễn đạt tương đương giữa hai ngôn ngữ,
không vì đặc trưng của mỗi thứ tiếng mà đầu hàng.
Đó là các giáo sư dạy chuyên
ngành. Còn về nghiệp vụ, tôi nhớ không nhiều. Không nhớ có học
Tâm lý không. Môn Giáo dục và môn
Luân lý chức nghiệp
thì 3 lớp Việt Anh Pháp học chung. Thầy Nguyễn Đình Hoan, mới đỗ tiến sĩ ở Mỹ về, dạy môn
Giáo dục. Thầy Nguyễn
Đình Hàm,
vị Thầy của nhiều bậc thầy của tôi, dạy Luân lý chức nghiệp. Lúc hết khoá, sắp thi, Thầy dặn
SV: "Môn này
sẽ không có anh chị nào
rớt. Và nhớ cố gắng đừng rớt
khi đã ra trường đi dạy". Hẳn là các
bạn đồng môn đồng nghiệp
của tôi đều ghi nhớ
lời dạy này
khi tiếp bước Thầy.
Nhà trường khuyến khích sinh viên
Sư Phạm học thêm
bên Khoa học hay Văn khoa để lấy thêm bằng cử nhân. Sinh viên
Dự bị Sư phạm ba lớp Việt Anh Pháp hầu
hết đều học thêm
Dự bị Văn khoa, và sau
đó đi vào chuyên
ngành. Quy định bắt buộc cho bằng cử
nhân giáo khoa dù ban
nào cũng phải có chứng chỉ Văn chương Việt Nam. Lúc này tôi được thuận lợi là biến sở đoản gốc trường Việt thành sở trường, tức là dễ dàng hơn các bạn trường Pháp. Sau khi đậu được ba chứng chỉ tiếng Pháp, năm cuối cùng tôi dành tất cả thời gian để học văn chương Việt Nam ( văn học thời Lý Trần với Giáo Sư Giản Chi Nguyễn Hữu Văn, văn học dân
gian với Giáo Sư Thuần Phong Ngô Văn Phát, Tự Lực Văn Đoàn với Giáo Sư Lê Hữu Mục...). Nhờ vốn liếng tích luỹ từ trung học tôi đỗ được chứng chỉ này, và nhờ
đó được cấp bằng Cử nhân Giáo khoa Pháp Văn ngay khi tốt nghiệp. Nhiều bạn có Dự bị Văn Khoa và ba chứng
chỉ tiếng Pháp, tiếng Anh nhưng kẹt Văn chương Việt Nam nên
vẫn không lấy được cử nhân giáo
khoa. Sau này
khi trường mở thêm chứng chỉ Văn Minh Việt Nam thay vào mới có
lối thoát.
Bạn học cùng
khoá, cùng
tốt nghiệp
là 9 người, đúng ra là 10 nếu tính cả Phạm Hoàng Chương chuyển vào Saigon năm cuối và thi tốt nghiệp ở đó. Chương hiện ở Mỹ, con cái thành đạt, giàu có, thảnh thơi viết lách, thường đăng truyện ở Việt Báo, từng đoạt
giải Viết về nước Mỹ. Cũng ở Mỹ có Trần Đức Thụ, cách đây mấy năm có về, tôi chỉ được gặp qua điện thoại. Joseph Vĩnh Su ở Úc, tôi có sang đó hai lần mà không biết tìm gặp ở đâu vì không có liên lạc. Nguyễn Văn Tiên ở Pháp, tôi có gặp và
đến nhà chơi hồi 1994-1995.
Số còn lại đều ở VN. Ở
Saigon có ba bạn: Nguyễn
Viết Quý nghỉ dạy từ lâu,
chuyển
sang làm dịch thuật cho một
văn phòng tư vấn pháp lý.
Phan Văn Hoàng
đi học Sử, lấy bằng tiến
sĩ. Đoàn Cầu, hiện nay sức
khoẻ không tốt lắm.
Chỉ còn Lê Văn Gioang ở lại Huế, nhiều năm mở trung tâm dạy tiếng Anh rất thành công. Sau mở thêm
văn phòng dịch thuật và hướng dẫn
xuất ngoại, cũng thành
công không kém. Riêng
Hà Văn Anh, không ai biết nay làm gì ở đâu. Vẫn hy vọng là bạn
còn đâu đó trên trái đất này để vui mừng tổng kết rằng sau nửa thế kỷ
cả lớp mười đứa nay vẫn còn
mười. Tôi trong số
ít tuổi nhất lớp,
cũng chớm ngưỡng bảy mươi. Tôi vẫn đeo đuổi nghề từ lúc ra trường, mười năm cuối của tuổi nghề về dạy trường Cao đẳng, nghỉ
hưu rồi dạy thỉnh giảng ở trung
học
thêm hai năm, vậy là trọn
40 năm chẵn làm nghề thầy giáo. Tạm cho là một
"thành
tích" đáng tự hào
trong hoàn
cảnh xã hội chuyển mình, lịch sử sang trang.
Vào
trường sư phạm học làm
người thầy giáo, sinh viên thời này đều cố gắng rèn
luyện
để có kiến thức và kỹ
năng toàn diện hơn. Tuỳ sở thích và sở trường của mỗi người, họ tham gia vào các hoạt động xã hội, văn nghệ, thể thao. Một số bạn đến với các tổ chức Hướng đạo, Thanh Niên Thiện Chí, hoặc các tổ chức tôn giáo.
Phong trào
học võ thuật phát triển
khá mạnh. nhất là môn
võ karate khi một võ sư người Nhật mở lớp. Về báo chí, khoá 1963-1967 ra được hai tập đặc
san, in typo đàng hoàng.
Xin mời đọc lại
đoạn mở đầu đặc san Hướng Đi của
năm dự bị sư phạm, xuất bản vào
mùa xuân năm 1964 để
nhớ lại "một thời để yêu,
một thời để nhớ" của thế hệ sinh
viên thời kỳ đầu thập
niên 60 của thế kỷ trước,
với tất cả tâm tình,
tâm trạng, tâm sự, qua lối diễn đạt ghi dấu ấn tuổi trẻ:
" ... Gục mặt xuống trong lòng trang giấy: giáo khoa, mô phạm, chuyên cần. Ngoài kia: trời cao, sắc trắng, sắc hồng, xuân, mùa xuân. Vuốt mặt, buồn. Ý thức mình xa
lánh
thiên
nhiên,
bắt lòng mình sống khắc khoải với những lo âu thường trực. Không, không
phải chỉ
có thế. Đem tâm hồn thả trong
vườn
văn hoá ta không
quên
mùa
xuân.
Thì để không quên mùa
xuân, xin tha nhân tìm
đến tha nhân, bắc một nhịp cầu, làm một lối
về cho cây
cỏ mùa
xuân đi cùng vào
HƯỚNG ĐI: người sinh viên sư phạm không phải chỉ là người sinh viên nhưng còn là con người."
Nội
dung 100 trang của Hướng đi, ngoài hai bài bày
tỏ quan điểm
và ba bài phóng sự về sinh hoạt của SV, còn lại chỉ
là sáng tác thơ văn.
Nhưng hai năm sau, với đặc san ĐỈNH TRIỀU, xuất bản vào mùa
xuân 1966, tính chất học thuật đã đậm nét hơn với những bài nghiên cứu, dịch thuật:
- Ý thức vinh quang trong thi ca.
- Œdipe và tâm
thức đối kháng
- Nhận diện
Chiêu hồn của Nguyễn Du.
- Những người theo gót Nguyễn Cư Trinh.
- Alain Fournier với
bản chúc thư viết lúc
tuổi nhỏ.
- Thùng
rượu Amantillado ( dịch E.A. Poe )
Cuộc sống của
sinh viên
khoá 1963-1967 không chỉ diễn ra bình dị và êm ả bên
trong khuôn viên
nhà trường bởi thời cuộc
không cho phép họ
được sống như vậy. Những biến động lớn ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước, của chế độ, và của từng gia đình, từng cá nhân đã âm ỉ diễn ra từ khi họ sắp vào
trường và kéo dài
suốt khoá học. Bắt đầu từ sự kiện xảy ra tại Đài Phát thanh Huế vào tối 8/5/1963, sau lễ Phật đản, đến vụ Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư đường Lê Văn Duyệt- Phan Đình Phùng,
Saigon, vào
ngày 11/6, sau đó là sáu tu sĩ khác lần lượt tự thiêu tại Phan Thiết, Ninh Hoà,
Huế ( chùa
Thiên Mụ và chùa
Từ Đàm ) và Saigon ( trước chợ Bến Thành - ngày 5/10 và trước Nhà thờ Đức Bà - ngày 27/10 ). Ngày
1/11/1963 quân đội đảo chính,
lật đổ chế độ Ngô Đình
Diệm. Hội đồng Quân nhân Cách mạng của Tướng Dương Văn Minh chỉ chấp chính được
ba tháng. Ngày 30/1/1964 Trung tướng Nguyễn Khánh làm cuộc
"chỉnh lý" để lên
làm Thủ tướng, tiếp
theo, cho đến năm 1965, là những
cuộc đảo chính,
thành hoặc không thành, với 13 chính phủ được dựng lên rồi bị lật đổ. Cần một biên niên
sử chi tiết
và khách quan(?) mới giúp nhớ được hết tất cả những hình thức tham gia của SV trong giai đoạn này và những
năm sau đó, thời chính
phủ Nguyễn
Văn Thiệu- Nguyễn
Cao Kỳ ( biểu tình,
xuống đường, bãi
khoá... ). Tháng 3/1966, cuộc đấu tranh của sinh viên
Huế bùng nổ dữ dội. Sinh viên chiếm và làm chủ Đài Phát thanh Huế. Trong 75 ngày đêm (từ 22/3 đến 7/6/1966 ), sinh viên điều khiển toàn bộ chương trình phát thanh, viết bài, viết tin, biên tập,
với sự trợ giúp kỹ thuật của nhân viên của Đài.
Ngoài chương trình phát thanh tiếng Việt còn có phần tiếng Pháp và tiếng Anh do sinh viên
lớp Pháp văn
và Anh văn khoá 63-67
này phụ trách.
Tất nhiên
các hoạt động ngoại học trình
( và "ngoại học đường"
) này không phải là riêng
lẻ, ngoài sinh viên-
học sinh, cả thành phố đều sục sôi với sự tham gia của nhiều
lực lượng khác, kể cả nhân
sĩ, trí thức, có lúc có cả các giáo sư đại học. Nhắc lại những chuyện này có thể có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau, nhưng có thể
nói, đối với sinh viên thì kết quả ( và hậu quả ) là những trải nghiệm quý báu để lựa chọn một thái độ sống, một quá trình rèn luyện
bản lĩnh, ý chí, tinh thần,
sức khoẻ, và (
cho một số bạn ) là những
ngày tháng lạnh lùng, lặng lẽ nhìn ra xã hội bên
ngoài từ những chấn song sắt.
THÂN
TRỌNG SƠN