PHẠM THỊ ANH NGA
Dịch giả Bửu Ý
và những chuyến du
hành chữ nghĩa
Chân dung Bửu Ý
dinhcuong
Giới văn học
nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường
nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm
ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ ... thiếu. Ông là Bửu Ý, một
nhân vật Huế không còn xa lạ gì đối với người trong nước và ở nước ngoài. Một con
người luôn thao thức về những chân giá trị và sự tồn vong của văn hóa Huế, về bản
sắc con người Huế. Ông cũng là một người đậm chất Huế hơn bất kỳ người Huế nào
khác. Vì nhiều lẽ.
Giữa những
đua chen đời thường, đôi khi đến mức nhiễu nhương, tiêu cực, ông chọn cho mình
một phong cách sống, một đường đời riêng, ung dung đĩnh đạc, không ưu tư và không
để mình vương vào vòng cương tỏa của những danh xưng Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo
nhân dân..., cả những học hàm học vị vốn được đám đông hết mực đề cao, xem như dấu
chỉ độc tôn của đẳng cấp. Gọi ông nhà Nhà văn, Nhà báo, Nhà văn hóa, Dịch giả, Đạo
diễn kịch, Nhà giáo dục … đều đúng cả, dẫu cho ông chẳng bao giờ màng đến “nhà”
hay “giả” nào. Ông chỉ thích tuyền là … Bửu Ý. Nhưng cái tên ông tự nó đã bao
hàm một chân giá trị. Rất riêng.
1
Trên văn đàn Việt Nam, từ rất
lâu, ông đã có những đóng góp và có chỗ đứng riêng, với những sáng tác cũng như
những dịch phẩm đã công bố, trước và sau năm 1975. Đặc biệt là những dịch phẩm,
với vai trò cầu nối giúp độc giả Việt Nam tiếp cận và tiếp nhận với văn chương
và thế giới bên ngoài. Tác dụng tích cực của các dịch phẩm của ông đã phần nào
được nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư khẳng định, khi chị chia sẻ rằng cuốn Con lừa và tôi của dịch giả Bửu Ý là cuốn
sách ghi dấu ấn đậm nhất cho thời thanh niên của chị.
Cuốn sách đầu tiên Bửu Ý dịch,
xuất bản năm 1963, là Nhật ký Anne Frank
(NXB An Tiêm). Ngoài ra, trước 1975 ông còn dịch Mặt trời mù của Malaparte (Ý), Thư
gởi con tin của Antoine de Saint-Exupéry, Vỡ Mộng của André Gide, Một
thoáng nàng của Hodërlin, Dostoievski
của André Gide, Bọn làm bạc giả cũng của
André Gide (Nobel 1947), Vườn đá tảng
của Nikos Kazanzaki, Con lừa và tôi của
Juan Ramón Jiménez (Nobel 1956), Đứa con
hoang trở về của André Gide (bản dịch tái bản năm 2008) và cuốn Văn học thế giới hiện đại của Alberes. Dịch
phẩm của ông xuất bản sau 1975 gồm có: Chúa
tể đầm lầy của Michel Tournier, Sư Vương
của Joseph Kessel, Nadja của
André Breton, và Truyện ngắn thế giới hiện
đại. Ngoài ra, ông còn dịch cuốn sách chuyên về triết Nuôi dưỡng đời mình của nhà triết học Pháp đương đại François
Jullien. Một đóng góp đáng kể nữa của Bửu Ý là việc dịch và biên tập hàng vạn
trang trong Tập san “Đô thành hiếu cổ” (Bulletin des Amis du Vieux Huế - B.A.V.H.).
Ngoài những dịch phẩm đã được
công bố, xuất bản, được đăng tải trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn Đàn, Phố Văn
(trước 1975) và các báo, tạp chí, tập san Sông Hương, Tia Sáng, Liễu Quán, Văn
Hóa Phật Giáo, Tuổi Trẻ, Đại Học Huế ... (sau 1975), còn khá nhiều bản thảo dịch
Pháp - Việt hay Việt - Pháp là những bài thơ, những ca từ mà nguyên bản là tiếng
Pháp hay tiếng Việt đã được ông chuyển ngữ và chép tay tặng bằng hữu, hiện vẫn
được lưu giữ rải rác nhiều nơi. Đặc biệt là những ca từ của Trịnh Công Sơn, vẫn
được giới văn chương xem là những bài thơ tuyệt đẹp.
2
Nhìn chung về dịch thuật, có thể
nói thị trường sách dịch ở nước ta chưa bao giờ nở rộ như hiện nay, và mảng đề
tài sách dịch, chất lượng dịch đang là một trong những tâm điểm bàn luận sôi nổi,
đôi khi quá khích, giữa nhiều người trong giới dịch thuật cũng như với độc giả,
báo giới. Nhưng việc chuyển dịch một văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác
không phải là sản phẩm của thời đại chúng ta, nó đã được thực hiện từ rất xa
xưa trong lịch sử nhân loại. Theo tự điển bách khoa Encyclopedia Universalis (2014), từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công
nguyên, những ngôi mộ của các ông hoàng đảo Éléphantine xứ Ai Cập đã có những
hàng chữ ghi bằng hai thứ tiếng. Những di chỉ đó là bằng chứng cho thấy thời đó
con người đã chuyển ngữ dưới dạng viết, một cách nghiêm túc. Ngoài ra, phiến đá
Rosette (năm 196 trước CN) được tìm thấy vào năm 1799 ở Ai Cập là một trong những
văn bản chuyển ngữ được xem là nổi tiếng nhất thời Cổ đại. Trên phiến đá đó được
khắc một sắc lệnh ban hành ở Memphis của pharaon Ptolémée, cùng một nội dung
nhưng được viết bằng hai ngôn ngữ là Ai Cập cổ đại và Hy Lạp cổ đại, và dưới dạng
ba loại chữ viết: trên cùng là chữ tượng hình Ai Cập cổ đại (hiéroglyphe), ở giữa
là ký tự Ai Cập (démotique) và dưới cùng là ký tự Hy Lạp. Phiến đá tam ngữ
Rosette đó hiện được lưu giữ ở Bảo tàng Anh quốc, nhưng tại Bảo tàng Quốc gia
Cairo (Ai Cập), ở gian đầu tiên và ngay lối vào, có trưng bày một phiên bản của
nó với lời ghi chú “Rosetta stone ‘Model’ ”. Thật may mắn cho tôi, vào cuối
năm 2004, trong dịp sang dự Hội thảo quốc tế tại Đại học Hélouan ở Cairo, tôi đã
được tận mắt chiêm ngưỡng phiến đá thế chân này. Riêng trong thế giới văn
chương, việc chuyển ngữ các tác phẩm văn học đã được thực hiện từ rất lâu, từ
thời Cicéron, thời Chateaubriand, Leconte de Lisle… cho đến tận ngày nay.
Trở lại với công việc dịch thuật
của Bửu Ý, có thể nói trong hơn nửa thế kỷ làm công việc chuyển ngữ, ông không có
những tuyên ngôn ồn ào gây bão, tạo dư luận, không đao to búa lớn, không lý
thuyết nọ trường phái kia, mà cứ lẳng lặng, mải miết lao tâm khổ tứ. Và những sản
phẩm dịch thuật của ông (được công bố hay không) cùng những tâm tư, trăn trở,
trải nghiệm được ông chia sẻ một cách chân tình, giản dị đến không ngờ dường như
lại trùng phùng, có sự đồng cảm sâu sắc với những gì đã được giới nghiên cứu
đúc kết trong phạm vi ngành Lý thuyết dịch, góp phần khẳng định, minh chứng, đồng
thời bổ sung cho những đúc kết có tính lý thuyết đó. Ngay Umberto Eco trong cuốn
Nói điều gần như thế - Trải nghiệm về dịch
thuật (Dire presque la même chose.
Expériences de traduction, 2007) cũng đề cao những trải nghiệm và đã băn
khoăn tự hỏi: khi muốn xây dựng một lý thuyết dịch, ngoài việc cần phân tích những
văn bản dịch, phải chăng cần có ba loại trải nghiệm, đó là từng hiệu đính các bản
dịch của người khác, từng làm công việc dịch thuật và từng có tác phẩm được dịch,
hoặc tốt hơn nữa là có tác phẩm được dịch và cùng hợp tác với người dịch trong việc
chuyển ngữ. Trong cuốn sách nói trên, Eco lập luận không thuần lý thuyết mà gắn
với rất nhiều ngữ liệu là các đoạn văn bản dịch từ tiếng Ý sang nhiều thứ tiếng
khác và cả ở chiều ngược lại, những văn bản do người khác dịch hoặc do chính
ông dịch. Những trải nghiệm đã góp phần khẳng định
tính chân lý và giúp lập luận thêm mạnh mẽ và tăng sức thuyết phục.
Chính nhờ dịch văn học mà con người dù ở đất nước nào, ở
thời đại nào cũng có thể tiếp cận với những tác phẩm văn học nước ngoài, với
văn chương thế giới hay "văn chương phổ quát" (Weltliteratur) theo
cách nói của Goethe. Tvzetan Todorov (1986) cho rằng bất cứ nền văn học nào
cũng vừa có tính quốc tế vừa gắn với một nền văn hóa cụ thể, mỗi nhà văn đều
bám rễ vào một nền văn hóa riêng, nhưng đồng thời cũng thuộc về di sản chung của
toàn nhân loại. Khoảng cách về địa lý, về thời gian không còn là rào cản, huyền
thoại tháp Babel cũng không còn nghiệt ngã, mà chỉ còn là thách thức, và chính
dịch thuật đã mang cơ hội đó đến cho toàn nhân loại. Bửu Ý đã có những trải
nghiệm riêng trong việc rút ngắn khoảng cách giữa người đọc Việt Nam và văn
chương nước ngoài. Trong một dịp chia sẻ với nhà báo Hoàng Văn Minh[1], ông bộc bạch về tiêu chí của
ông trong việc chọn các tác phẩm để dịch sang tiếng Việt như sau: “Trước hết là
về nội dung văn hóa, nhân bản của nó. Thứ đến mới là tên tuổi của nhà văn. Đó
là những tên tuổi vượt không gian, thời gian. Ngoài ra còn là hình thức văn
chương của tác giả. Đó là kiểu mẫu cho độc giả. Tôi nhắm một lúc được nhiều mặt,
dù tác phẩm của họ rất kén bạn đọc.” Ông cũng nhận định chung về cách các tác
phẩm văn chương được chọn để dịch ở Viêt Nam: “… với các tác phẩm văn chương
đích thực thì dù ở miền Nam hay miền Bắc, dù trước hay sau năm 1975, đều được chúng
ta yêu quý, trân trọng và chọn dịch để giới thiệu với công chúng.”
Không chỉ ưu tư về việc kiến tạo chiếc cầu nối giữa tác
phẩm văn chương nước ngoài và độc giả, Bửu Ý còn hoài vọng xa hơn về tác dụng
tích cực của tác phẩm được dịch đối với thanh niên và tâm hồn của họ: “Khi dịch
tôi luôn nghĩ mình phải có trách nhiệm lo cho thanh niên của đất nước, đào tạo
cho tâm hồn của một thế hệ thanh niên biết rung cảm trước cái đẹp.”
3
Có thể nói, đối với những băn khoăn có tính hàn lâm của
giới nghiên cứu dịch thuật, về những sự đối lập giữa hai kiểu dịch là dịch ngôn
ngữ (traduction linguistique) và dịch ý nghĩa
(traduction interprétative), giữa dịch tương đương (traduction par
correspondances) và dịch tương ứng (traduction par équivalences), hay mối ưu tư
của Georges Mounin đối với hai loại người dịch, một bên quá lệ thuộc vào văn bản
gốc và một bên hoàn toàn thoát khỏi nó, Bửu Ý không quan tâm tự xếp mình vào loại
nào. Bằng cách riêng của mình, ông có những cân nhắc, đắn đo và có những lựa chọn
riêng dựa vào trải nghiệm thực tế, vốn liếng phong phú và tinh tế về chữ nghĩa
của mình ở cả hai ngôn ngữ thường được giới nghiên cứu gọi là ngôn ngữ nguồn và
ngôn ngữ đích. Và sản phẩm dịch của ông được hình thành với một thái độ rất cẩn
trọng, và có tính thuyết phục. Nói theo ngôn ngữ của Lý thuyết dịch, thì ông dịch
ở cấp độ văn bản chứ không dừng lại ở cấp độ từ hay câu, điều luôn được các nhà
nghiên cứu đánh giá cao. Mặt khác, các dịch phẩm của ông không sa vào xu hướng
quá chú tâm đến tính lạ, tính ngoại lai của văn bản gốc dẫn đến nguy cơ có một
bản dịch tối nghĩa, ông cũng không “hy sinh” những khía cạnh độc đáo của văn bản
gốc mà tìm cách thể hiện những góc cạnh đó bằng cách khai thác những đặc trưng
ngôn từ và cả những yếu tố ngoại ngôn trong ngôn ngữ đích. Khi ca từ của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn “Có đường phố nào vui /
Cho ta qua một ngày” được ông dịch sang tiếng Pháp là “Une rue en fête / M’attire-t-elle le pas”, thì ở đây chuyển ngữ vẫn
ở lưng chừng giữa dịch tương đương và dịch tương ứng nhưng có phần nghiêng về dịch
tương ứng hơn, bởi từ ngữ được dùng trong văn bản tiếng Pháp không tương đương hẳn
với từ ngữ trong văn bản tiếng Việt, không là kiểu dịch từng từ một, mà bản dịch
vẫn chuyển tải được hình ảnh, ý tứ của ca từ. Và dường như nhờ đó mà ý tứ được
chuyển dịch trọn vẹn hơn so với việc cứ máy móc bám hẳn theo từng chữ của ca từ
tiếng Việt. Cũng như nhan đề của ca khúc “Ru
ta ngậm ngùi” khi được ông chuyển ngữ sang tiếng Pháp là “Je me berce de souvenirs” (Tôi tự ru
mình bằng kỷ niệm) thì ý nghĩa và âm vang vẫn giữ trọn dù diễn đạt có hơi khác
đi.
4
Dịch thuật vốn không đơn giản, và trong dịch văn học những
khó khăn, rào cản lại càng sản sinh gấp bội. Người dịch luôn phải đối đầu với
những thử thách khi chuyển dịch một văn bản văn chương từ ngôn ngữ-văn hoá này
sang ngôn ngữ-văn hoá khác. Ý kiến thống nhất chung của rất nhiều nhà nghiên cứu
là công việc đó cực kỳ khó, thậm chí không thể nào dịch trọn vẹn các tác phẩm
văn học, đặc biệt là các tác phẩm thơ.
Nguyên nhân của những khó khăn, rào cản trước tiên có thể
gắn với khía cạnh văn hóa trong văn bản gốc. Trong
cuốn Nói điều gần như thế…, Umberto
Eco nhắc lại sự việc đã được xem như hiển nhiên, rằng dịch thuật không chỉ bao gồm sự dịch chuyển từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác, mà cả sự dịch chuyển giữa hai nền văn hóa, hai nền tri
thức bách khoa. Người dịch cần quan tâm đến những quy tắc ngôn ngữ, cũng như những
quy tắc văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này. Có những điều hiển nhiên
đối với nền văn hóa này lại có thể bí hiểm, thậm chí vô nghĩa đối với cư dân
thuộc nền văn hóa khác. Điều đó Bửu Ý đã trải nghiệm, và ông chia sẻ về việc dịch
nhan đề cuốn sách Chúa tể đầm lầy của
Michel Tournier như sau: “… ngay cái đề “Le Roi Des Aulnes”, bản thân chữ
“Aulne” là một loại cây mọc ở đầm lầy, tự điển dịch là cây Trăn. Nếu dịch là
“Vua cây trăn” thì chắc chắn không ai hiểu gì cả. Cho nên dựa vào nội dung tôi
phải dịch là “Chúa tể đầm lầy” ”. Tương tự như thế, nhan đề tiếng Pháp của
tiểu thuyết Le lion của Joseph Kessel
được Bửu Ý chuyển ngữ thành Sư Vương
(NXB Trẻ, 2001). Trong sách, “Vương” (trong bản dịch) hay “King” (trong nguyên
bản tiếng Pháp, là một từ tiếng Anh) được dùng để chỉ và gọi tên sư tử, ở ngôi
thứ hai và ngôi thứ ba, và vừa trong lời thoại (“Đứng im, Vương, mày đứng im.”) vừa trong câu chuyện kể (“Lòng bàn tay tôi đặt lên trên cổ của Vương.”).
Khi chuyển ngữ, Bửu Ý chủ động thêm yếu tố “Vương” vào nhan đề cuốn sách, trong
khi nhan đề trong nguyên bản chỉ đơn giản là “Le lion” (Sư tử, Con sư tử). Quả
thật, hình tượng sư tử trong văn hóa phương Tây vốn có ý nghĩa hàm ẩn đế vương và
sức uy mãnh khác với trong văn hóa phương Đông. Tiếc rằng trong cuốn sách dịch,
hình bìa và kiểu chữ của nhan đề chưa được đầu tư đúng mức, chưa tạo được sức
hút cũng như chưa lột tả được hàm ý của nhan đề và của câu chuyện kể. Trong khi
tất cả các yếu tố tưởng là nhỏ nhặt đó đều ít nhiều góp phần vào ý nghĩa và
thông điệp của cuốn sách. Bản thân cuốn tiểu thuyết đó trong bản gốc tiếng Pháp
đã được tái bản nhiều lần, và gần như trong mỗi lần xuất bản đều có một bìa
sách mới vừa đẹp lại vừa rất thuyết phục.
5
Khó khăn trong dịch văn học cũng có thể xuất phát từ những
đặc trưng của ngôn ngữ và các ngôn từ, sự khác nhau giữa hai hệ thống ngôn ngữ,
độ lệch giữa hai ngôn ngữ khi phản ánh và gọi tên thế giới, hiện thực khách quan,
hoặc trong dụng ngôn. Tiếng Pháp là một ngôn ngữ biến hình, chẳng hạn động từ
có thể có những dạng khác nhau tùy theo thời, thức, thể…, và khi chuyển ngữ sang
tiếng Việt người dịch thường phải dùng đến các biện pháp từ vựng để diễn đạt ý
của phạm trù ngữ pháp tương đương. Chẳng hạn bài thơ Barbara của Jacques Prévert vốn được xây dựng với nhiều lớp thời
gian quá khứ xa / quá khứ gần / hiện tại, và động từ được chia ở các thời tương
ứng. Sự song hành trong cùng một văn bản giữa các thời khác nhau của cùng một động
từ tạo nên một thế tương phản, đối lập giữa xưa và nay, giữa quá khứ xa và quá
khứ gần, nhưng khi chuyển ngữ sang tiếng Việt thì sự tương phản đó đã bị xóa
nhòa vỡ vụn. Ở đoạn cuối bài thơ, “C’est
une pluie de deuil terrible et désolée”, động từ chỉ đơn giản ở thời hiện tại
nhưng khi chuyển ngữ, để xác định rõ thời điểm Bửu Ý buộc lòng phải sử dụng
thêm từ “nay” không có trong nguyên bản: “Nay
là mưa tang tóc hãi hùng tàn tạ”. Cũng chính do đặc trưng ngôn ngữ mà từ “tutoyer”
hay cụm từ “dire tu” tiếng Pháp (gọi thân mật bằng “tu, toi”, đối lập với việc
gọi bằng “vous”) trong “Et ne m’en veux
pas si je te tutoie / Je dis tu à tous ceux que j’aime" được chuyển
thành “gọi em”, “gọi bằng em”: “Mà em
cũng đừng giận tôi gọi bằng em / Tôi gọi em những người tôi yêu”. Tuy nhiên
cũng có khi câu dịch không giữ được nét thơ, tính ám chỉ, sự bảng lảng của câu
gốc, như trường hợp “Môi nào hãy còn thơm”
(trong Ru ta ngậm ngùi - TCS) được
chuyển ngữ thành “Ton baiser sent bon”
(Cái hôn em thơm), có lẽ một phần do những câu thúc về nhịp điệu và số âm tiết
(5 âm tiết), bởi đó là ca từ với 5 nốt nhạc đi kèm.
6
Về tính thi ca của tác phẩm văn học, theo Jean Peytard,
“chiều sâu của một văn bản văn chương nhất thiết phải nằm ở bề mặt của nó”. Khó
có thể chuyển ngữ đặc điểm hình thức của câu thơ, các vần điệu, những nghĩa bao
hàm, quan hệ giữa đặc điểm ngữ âm và ý nghĩa, là những yếu tố góp phần cấu
thành đặc tính của bài thơ. Trong dịch văn học, đặc biệt là dịch thơ, tính tượng
thanh, tượng hình của ngôn từ, sự kết hợp tài tình trong văn bản gốc giữa nội
dung diễn đạt và hình thức chuyển tải nội dung đó có nguy cơ bị phá vỡ. Chẳng hạn
bài thơ Đường cong đôi mắt em đi vòng
quanh trái tim tôi (La courbe de tes
yeux fait le tour de mon cœur) của nhà thơ siêu thực Paul Éluard bao gồm rất
nhiều yếu tố khó lòng chuyển ngữ sang tiếng Việt, như hiệu ứng âm thanh của các
chuỗi phụ âm (allitération), các chuỗi nguyên âm (assonance), hay việc sử dụng
rất dày các nguyên âm mà với "đôi tai" nhạy cảm của mình người Pháp vẫn
liên tưởng đến những hình thù cong, tròn, vòng cung, xoắn ốc... Tương tự như thế,
trong bài thơ Cầu Mirabeau (Le pont Mirabeau) của Guillaume
Apollinaire, khi chuyển ngữ có thể giữ nguyên dạng các câu thơ không có dấu chấm
câu, nhưng làm sao có thể chuyển dịch những đặc điểm sau của bài thơ mà tác giả
đã cố công mài giũa: việc cả hai câu 2 và 3 của mỗi khổ thơ nguyên chỉ là một
câu thơ và được tách làm hai (số chân hay âm tiết của cả hai câu cộng lại bằng đúng
số chân hay âm tiết của mỗi câu thơ khác), cuối cùng câu 2 là câu thơ ngắn nhất
trong khổ thơ (chỉ 4 âm tiết), và vần ở câu 2 luôn là vần đực, là điểm nhấn, đối
lập với những câu thơ còn lại luôn là vần cái. Dường như là để có được hiệu ứng
âm thanh và hiệu ứng tâm lý mà lời mời gọi mở đầu và được lặp đi lặp lại trong
bài thơ Barbara của Prévert, “Rappelle-toi Barbara” (Hãy nhớ đi
Barbara), đã được Bửu Ý chuyển thành một câu hỏi gợi: “Barbara nhớ không em”. Và một trong những điểm thành công nhất của dịch
giả Bửu Ý trong việc chuyển ngữ bài thơ này theo tôi là ở chuỗi các tính từ được
chọn lựa rất kỹ, rất đắt, với những hiệu ứng về âm thanh, hình ảnh lung linh ngang
ngửa với nguyên bản tiếng Pháp: “Em bước
đi tươi cười / Rạng rỡ nhởn nhơ lẫm đẫm" (Et tu marchais souriante / Épanouie ravie ruisselante).
7
Trong
dịch văn học, người dịch không chỉ có vai trò trung gian, làm cầu nối, giữa một
bên là tác phẩm và tác giả nước ngoài và một bên là độc giả. Đó còn là một kiểu
sáng tạo văn học, và kết quả cuối cùng là đồng thời cùng tồn tại hai văn bản:
văn bản gốc và văn bản dịch. Dịch tác phẩm văn học không chỉ là giải mã văn bản
gốc, lột bỏ cái vỏ ngôn ngữ của nó để hiểu và cảm tận cùng, và diễn đạt lại trong
một ngôn ngữ khác những ý đã hiểu được và cái tình đã cảm được. Dịch văn học còn
là một quá trình tương tác với ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu cảm, chiều sâu
văn hóa, những hàm ý gắn với văn hóa (implicites culturels). Theo Inès
Oseki-Dépré (1999), khi dịch một văn bản, nếu nghĩa biểu vật được cho là có thể
chuyển ngữ, thì nghĩa hàm ẩn lại được xem là không thể dịch được. Thi ca được
xây dựng với ít nhiều nghĩa hàm ẩn và mối tương quan giữa âm thanh và ý nghĩa.
Những ý nghĩa này chỉ có thể được chuyển tải và lưu giữ trong văn bản dịch nếu
dịch giả nắm bắt, dụng công và sáng tạo thành công. Trong dịch văn học, người dịch
vừa đóng vai trò tiếp nhận đối với tác phẩm được dịch (thao tác đi từ ngôn từ đến
ý nghĩa - sémasiologique) vừa đảm nhận công việc diễn đạt lại nó, tái tạo nó
trong một ngôn ngữ khác (thao tác từ ý tưởng đến ngôn từ - onomasiologique).
Cùng với tác giả, dịch giả được xem là đồng tác giả của tác phẩm đã được chuyển
ngữ.
Nhưng
với tính cách đa thanh và đa nghĩa vốn có, tác phẩm văn học cho phép nhiều cách
đọc đa dạng, tuỳ thuộc vào từng người tiếp nhận, tùy ý thích, mục tiêu, trạng
thái, tùy năng lực, trải nghiệm… của họ, tùy cả thời điểm, không gian tiếp nhận.
Từ đó, việc tái tạo lại trong chuyển ngữ cũng có thể đa dạng, đa phong cách. Dịch
giả Bửu Ý có nhận định tương tự: “Tác phẩm giá trị thường được nhiều người chọn
dịch. Mỗi dịch giả có trình độ văn hóa, ngôn ngữ khác nhau, có cách làm việc
riêng, nên có khác biệt trong các bản dịch là chuyện thường tình.”
Thử
quan sát cách dịch câu đầu tiên của bài thơ Barbara,
"Rappelle-toi Barbara”, có thể nêu
ra những cách dịch đa dạng sau: vẫn là lời gọi mời, gợi ý trong “Barbara em hãy nhớ” (Nguyễn Đăng Thường,
Diễm Châu), “Barbara hỡi, em hãy nhớ”
(Thân Trọng Sơn), “Barbara em nhớ cho”
(Võ Công Liêm phỏng dịch), hay đã là một câu hỏi gợi như cách chuyển ngữ của Bửu
Ý (“Barbara nhớ không em”), chẳng hạn
“Barbara nhớ chăng em” (Phạm Nguyên
Phẩm 1998), “Có nhớ không Barbara”
(Thụy Vi Paris), “Nhớ không em” (Anne
Nguyễn), thậm chí không còn là Barbara nữa mà đã là … Mai: “Em còn nhớ không em Mai” (Nguyễn Văn An)[2].
Cũng
trong bài thơ đó, hai câu thơ chuyển mạch đầy phẫn uất “Oh Barbara / Quelle connerie la guerre” được chuyển ngữ sang tiếng
Việt với nhiều mức độ căm tức, giận dữ khác nhau, từ nhẹ nhàng đến đỉnh điểm: “Hỡi
Barbara / Cuộc chiến tranh xuẩn ngốc xiết bao” (Thân Trọng Sơn 2015), “Ôi em Mai / Chiến tranh thật ngu ngốc”
(Nguyễn Văn An), “Hỡi ơi, cuộc binh lửa
cuồng điên” (Anne Nguyễn), “Ôi
Barbara / Chiến tranh đáng rủa nguyền” (Phạm Nguyên Phẩm 1998), “Ôi Barbara / Chiến tranh thực là đần độn chó
má” (Nguyễn Đăng Thường, Diễm Châu), hay gọn ghẽ với một lời rủa: “Ơi Barbara / Mẹ kiếp chiến tranh” (Bửu
Ý).
Nói về
công việc dịch thuật của mình, Bửu Ý tâm sự: “Về mặt dịch, tôi cho rằng, chậm
là cần thiết bởi nhanh quá sẽ cạn tiếng Việt. Có nhiều từ tiếng Việt thông dụng,
sử dụng hàng ngày, nhưng khi dịch nhiều và căng quá tự nhiên quên mất những từ
đó, lại chọn từ khác không hay bằng. Tôi quan niệm giỏi ngoại ngữ không thôi
thì không thể dịch hay được.” Không chỉ cân nhắc trong chọn từ để dịch, Bửu Ý
còn có những sáng tạo bất ngờ và độc sáng trong dụng ngôn, với cả tiếng Pháp, qua
những cách dùng mới lạ. Chẳng hạn khi dịch nhan đề ca khúc “Đêm thấy ta là thác đổ”, ông đã chuyển
ngữ thành “Je me rêve chute d’eau”, với
cấu trúc động từ “rêver” dạng phản thân, lạ và hay.
8
Để đánh giá một bản dịch là hay, là thành công, Eco cho rằng
dịch thuật phải là một cuộc thương thảo, bởi nó cũng đồng thời là sự đối thoại
giữa nền văn hóa của tác giả và nền văn hóa của người đọc. Dịch hay là tạo được
hiệu quả giống như hiệu quả mà văn bản gốc trong ngôn ngữ nguồn muốn tạo ra cho
người đọc, là trung thành với ý đồ của tác giả. Dịch không phải là nói điều y hệt,
đó là việc bất khả thi, mà là tạo ra hiệu quả y hệt.
Điều đó dường như đã diễn ra thực sự với dịch giả Bửu Ý
khi ông chuyển ngữ bài thơ Barbara của
Jacques Prévert. Ông không những chuyển được những nét nghĩa tinh tế, mà còn giữ
gần như trọn vẹn hồn cốt, cái tình của bài thơ, những đặc trưng về thi pháp, tu
từ, cả về nhạc tính, nhịp điệu, khiến tác dụng, hiệu ứng của nó đối với người
tiếp nhận gần như y hệt của bài thơ gốc. Cả cái giọng điệu, chất trữ tình, bi
thương, thống thiết cũng được chuyển dịch thành công, suôn sẻ, mượt mà. Chẳng hạn
ở những đoạn thơ: “Em bước đi / Rạng rỡ
nhởn nhơ lẫm đẫm / Dưới mưa" – “Ơi
Barbara / Mẹ kiếp chiến tranh / Em giờ này ra sao / Dưới cơn mưa sắt thép / Dưới
cơn mưa lửa máu”. Đặc biệt là ở đoạn cuối của bài thơ mà âm vang của ngôn từ,
âm thanh, hình ảnh mãi còn đọng lại và ngân mãi trong lòng người đọc không khác
gì nguyên bản: “Ơi Barbara / Trời mưa
miên man thành phố Brest / Mưa như mưa xưa kia / Nhưng đâu còn như xưa mà vùi dập
cả rồi / Nay là mưa tang tóc hãi hùng tàn tạ / Thà mưa bão / mưa sắt mưa thép
mưa máu cho cam / Nay chỉ tuyền những tảng mây / Chết tan tành như chó chết /
Như lũ chó cuốn theo dòng nước thành phố Brest / Đi sình thối nơi xa / Xa thật
xa thành phố Brest / Không còn lưu dấu vết”. Bài thơ đã được khá nhiều người
dịch sang tiếng Việt, nhưng dường như chưa có bản dịch nào đạt đến mức có thể
nói là tuyệt tác như thế.
Đúng như Bửu Ý nói khi nhắc đến độc giả của các dịch phẩm
của mình, đặc biệt là những người trẻ: “Họ thấy xúc động, rung cảm khi đọc những
tác phẩm tôi chọn giới thiệu, vậy là thành công.”
Dẫu đã đạt đến một tầm cao hiếm có, dịch giả Bửu Ý luôn
ưu tư và cẩn trọng trong chuyển ngữ như đã chia sẻ với nhà báo Hoàng Văn Minh:
“Tôi là người luôn ưu tư về vấn đề văn hóa trong nghĩa cao và đẹp nhất. Tôi
luôn nghĩ làm sao để nước mình có một nền văn học có văn hóa cao và xã hội luôn
có những con người biết quý trọng văn hóa. Mà muốn làm được như vậy thì ngay
hình thức của những tác phẩm mình chuyển ngữ, những điều mình viết ra trước hết
phải có sự săn sóc về chữ nghĩa sao cho đẹp. Thêm nữa đừng có chủ quan vì người
đọc rất tinh tường, nếu mình không cẩn trọng, chữ mình không đẹp thì người ta sẽ
coi nhẹ, không thèm đọc mình nữa.”
***
Nhưng Bửu Ý không dừng lại ở chỗ chuyển ngữ trọn vẹn các
tác phẩm văn học. Có nhiều khi những dịch phẩm của ông không chỉ là những văn bản
dịch thuần túy. Với bài thơ Barbara mà
ông đã chuyển ngữ, ông còn nối dài cuộc sống cho nó bằng cách sân khấu hóa bài
thơ như ông đã từng làm với một số bài thơ khác cũng của Prévert, hay những bài
thơ ngụ ngôn của La Fontaine. Ấn tượng nhất là màn trình diễn bài thơ Barbara những năm 80 thế kỷ trước tại Đại
Học Sư Phạm Huế, với sự xen kẽ của hai ngôn ngữ Pháp - Việt, hai giọng đọc nam
và nữ, nền nhạc valse, điệu vũ thướt tha của hai nhân vật nam nữ ẩn sau tấm màn
trắng và từ bên dưới khán giả chỉ nhìn thấy qua hai cái bóng hắt lên tấm màn căng
to che trọn sân khấu.
Tôi có cơ duyên là môn đồ của dịch giả Bửu Ý những năm học
đại học, với các môn Văn học Pháp và Dịch. Trong phần dịch ngược Việt - Pháp, có
một thời thầy trò chúng tôi miệt mài chép và lần lượt dịch từng đoạn, từng
trang cái truyện ngắn khá dài của Thượng Văn có nhan đề là Niềm vui thiêng liêng, một câu chuyện kể về trường lớp, cô trò thời
chiến tranh. Ngày qua ngày, học trò dịch và thầy phân tích, chỉnh sửa từng chút
từng chút… Vài năm sau, một dịp tình cờ, tôi vào nhà sách và bất ngờ thấy một tập
truyện ngắn của nhiều tác giả, có tựa chung là Niềm vui thiêng liêng, NXB Lao Động 1971 (in lần thứ 2). Và đúng là
bên trong có cái truyện ngắn ngày nào, mà nhan đề cũng được chọn làm nhan đề
chung cho cuốn sách.
Và như thế, bằng công việc dịch thuật, Bửu Ý có những
chuyến du hành chữ nghĩa thú vị giữa ngôn ngữ-văn hóa này và ngôn ngữ-văn hóa
khác. Những chuyến du hành không đơn độc, bởi chiếc cầu chuyển ngữ ông đã kiến
tạo, góp phần nối liền những bờ Đông Tây đã giúp bao người cùng đồng hành, cùng
khám phá, rung cảm. Những chuyến du hành tuyệt đẹp, đúng với tâm nguyện của ông:
“… cái đẹp, những giá trị cơ bản nhất của con người viết
hoa dù ở đâu, dưới chế độ nào cũng dễ tìm, dễ gặp gỡ với các nền văn hóa khác
và đó là điều tôi luôn đi tìm, hướng tới. ”
Tháng
năm vừa qua, nước Cộng Hòa Pháp đã trao tặng ông Huân chương Cành cọ Hàn lâm
Pháp, vì những đóng góp của ông về văn hóa, văn học nổi bật trong khối Pháp ngữ
suốt mấy chục năm qua. Thiết nghĩ sự tưởng thưởng đó không có gì là khó hiểu.
8
/ 2015
Phạm thị Anh Nga
Bài thơ Barbara của Jacques Prévert
và bản Việt ngữ của Bửu Ý (thủ bút Bửu Ý)
Tiểu thuyết Le lion của Joseph Kessel
và bản tiếng Việt do Bửu Ý chuyển ngữ
Tư liệu tham khảo:
-
Adam
Jean-Michel, 1992, Langue et littérature,
Hachette FLE, 216 tr.
-
Besse
Henri, 1982, “De la traduction des connotations d’un poème” trong Peytard Jean
(Littérature et classe de langue,
LAL, Hatier 1982), tr.159-174
-
Chighini
Patricia, “Les défis de la traduction”, Le Journal de BabeLg 25 (04- 2008), www.babelg.ulg.ac.be/bulletin/n25/dt.pdf
-
Eco
Umberto, Dire presque la même chose.
Expériences de traduction, Myriem Bouzaher dịch từ tiếng Ý, Grasset, Paris,
2007, 460 tr.
-
Encyclopedia Universalis, Phiên bản mềm 2014
-
Lam
Thu, “Vấn đề dịch văn học được mổ xẻ”, VnExpress 11-6-2015,http://giaitri.vnexpress.net/tintuc/sach/lang-van/van-de-dich-van-hoc-duoc-mo-xe-3232349.html
-
Lederer
Marianne, 1994, La traduction aujourd’hui
– Le modèle interprétatif, Hachette FLE, 222 tr.
-
Oseki-Dépré
Inès, 1999, Théories et pratiques de la
traduction littéraire, Armand Colin, 283 tr.
-
Peytard
Jean, 1988, “Les usages de la littérature en classe de langue” trong Bertrand
D., Ploquin F. (Cb), Littérature et
enseignement. La perspective du lecteur, tr.8-17.
-
Phạm
Thị Anh Nga, “Traduisibilité vs intraduisibilité – Le cas des textes
littéraires et de leur traduction en milieu scolaire” (Khả năng chuyển ngữ
trong dịch thuật và dịch văn học – Trường hợp các bản dịch văn học nước ngoài
trong nhà trường), Kỷ yếu Hội thảo KH Công
tác dịch thuật và đào tạo cử nhân Phiên-Biên dịch (ĐHNN-ĐH Huế - Trung tâm
HT NCCA-ĐHQG HN) Huế 8/2007, tr.141-171
-
Todorov
Tzvetan, 1967, Littérature et
signification, “Langue et langage” Larousse, 118 tr.
-
Todorov
Tzvetan, 1986, “Le croisement des cultures”, Communications số 43, Le croisement des cultures, tr.5-24
Ngữ
liệu chính:
- Hoàng
Văn Minh, “Dịch giả Bửu Ý: “Văn chương đích thực không phân biệt Nam - Bắc” ”,
Lao Động Cuối Tuần 18-04-2015,
http://laodong.com.vn/lao-dong-cuoi-tuan/dich-gia-buu-y-van-chuong-dich-thuc-khong-phan-biet-nam-bac-317292.bld
-
Kessel Joseph, 1987
(1958), Le lion, Folio Junior
Gallimard, 248 tr.
-
Kessel Joseph, 2001, Sư Vương, Bửu Ý dịch, 288 tr.
-
Nguyễn
Văn An, 2010, “J Prévert: Barbara, Phỏng dịch: NVA” https://sites.google.com/site/ngvananwebpages/07-tho-dich/dich-tho-j-prevert-barbara
-
Phạm
Nguyên Phẩm, 1998, 100 bài thơ Pháp từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XX, Édition en bilingue, NXB Giáo Dục, 327 tr.
-
Thân
Trọng Sơn, 2015, Lãng du qua những miền đất
lạ, NXB Hội Nhà Văn, 195 tr.
-
Các bản
thảo viết tay về dịch Pháp - Việt và Việt - Pháp của dịch giả Bửu Ý.
[1]
Đăng trên Lao Động Cuối Tuần, 18-04-2015. Phần lớn những chia sẻ của dịch giả Bửu Ý được nêu ra ở đây là trích dẫn
từ nguồn này.
[2]
Bài thơ được Nguyễn Văn An dịch với nhan đề Mai,
kèm lời chú thích: “Bản dịch trên ráng giữ ý thơ, nhưng giữ tên Pháp, Barbara,
Brest, Ouessant, thì rất khó đọc, nên đã xin đổi tên Barbara thành Mai, Brest
thành Hà Nội, cuối bài phải đổi đi một chút, vì Hà Nội không có biển, chỉ có hồ)
NVA”