Mùa nước nổi - Photo by Nguyễn Huỳnh
Cửu
Long giang mở chín lần cửa rộng
Dòng sông dài dữ dội bản trường ca Nguyên Sa
Dòng sông dài dữ dội bản trường ca Nguyên Sa
Gửi
Nhóm Bạn Cửu Long
NGÔ THẾ VINH
NGÔ THẾ VINH
MÙA NƯỚC NỔI NƠI ĐBSCL
Như
nhịp điệu ngàn năm của con sông Mekong, hệ sinh thái vùng châu thổ sông Cửu
Long được cân bằng một cách tự nhiên với “mùa nước nổi” và “mùa nước giựt”.
Theo anh Dohamide Đỗ Hải Minh, một học giả gốc người Chăm, một cây bút quen thuộc
của báo Bách Khoa trước 1975, sinh ra và lớn lên ở miệt Hậu Giang Châu Đốc rất
am tường về hệ sinh thái của Đồng Bằng Sông Cửu Long, thì trong bao thập niên
qua, người dân miền Tây đã quen sống với nạn ngập lụt hàng năm, hay còn gọi là
mùa nước nổi, như là một hiện tượng thiên nhiên đến đều đặn theo chu kỳ. [1]
Ngày
xưa, cũng chỉ cách đây hơn 300 năm thôi, các thế hệ tiền nhân thời kỳ Nam Tiến,
khi mới đến khai phá vùng ĐBSCL thường chọn sống lập nghiệp trên các khu đất
cao hay còn gọi là “đất giồng” nên đến mùa nước nổi, cho dù những cánh đồng thẳng
cánh cò bay biến thành biển nước mênh mông, nhưng các khu đất giồng này vẫn là
vùng cư trú an toàn cho người dân và cả vô số các loài rắn. Sau này do dân số
gia tăng, không còn đủ các khu “đất giồng” nên những di dân mới tới phải chọn định
cư ngay trên những vùng đất mà họ có thể canh tác. Và để thích nghi, nhà cửa dọc
hai bên sông rạch được cất theo kiểu nhà sàn, với chiều cao của các cây cột sàn
được tính toán sao cho đến Mùa Nước Nổi, con nước đổ về không ngập lụt đến sàn
nhà.
Mùa
Nước Nổi hay còn gọi là Mùa Nước Lên thường rất hiền hòa khác hẳn với các mùa
lũ lụt tàn phá dữ dội như ở miền Bắc hoặc miền Trung. Dấu hiệu “mùa nước nổi” tại
vùng ĐBSCL chủ yếu là vào khoảng tháng tám Âm lịch [tháng 9 tháng 10 Dương lịch],
thường được báo trước bằng những “giề” hay bè lục bình từ các cánh đồng trên đất
Cam Bốt bị nước ngập, cuốn bật rễ nối đuôi nhau trôi theo dòng xuống đến phần đất
Nam Việt Nam. [1]
Mực
nước hai con sông Tiền sông Hậu trong “mùa nước nổi” có đặc tính dâng cao lên từ
từ rồi tràn qua các bờ sông rạch, làm ngập các cánh đồng. Nước lũ có công dụng
không chỉ rửa đất rửa phèn mà còn thêm lượng phù sa như một thứ phân bón thiên
nhiên “trời cho” khiến đất đai thêm phần màu mỡ, biến ĐBSCL thành vựa lúa của cả
nước và Việt Nam đã từng đứng thứ hai trên thế giới về xuất cảng lúa gạo chỉ
sau Thái Lan. Trước đây vùng ĐBSCL còn có một loại lúa thiên nhiên có tên là
lúa mù/ lúa sạ hay người Pháp gọi là lúa nổi/ riz flottant, có đặc
tính “phóng ống” mọc rất nhanh theo mực nước dâng cao có khi đến 7, 8 mét, và
khi đến mùa nước giựt thì thân cây lúa nằm rạp mình trên đất chờ gặt. Từ ngày
có giống lúa Thần Nông/ HYV với năng suất cao, lúa nổi không còn được nông dân
quan tâm tới nữa.
Thông
thường, đến “mùa nước nổi”, người dân miền Tây vẫn phải canh chừng đo mực nước
lên từng giờ để phản ứng kịp thời trong trường hợp con nước vượt cao quá mức
bình thường hơn các năm trước. Khi áp lực nước từ thượng nguồn bớt đi, thì mực
nước liền đứng lại và rồi hạ xuống rất nhanh và giới bình dân gọi là “nước giựt”.
Người ta nói nước giựt, vì mực nước hạ xuống trông thấy rõ từng giờ.
Cũng
vẫn theo anh Dohamide thì hiện tượng nước nổi và nước giựt không diễn ra đồng đều
cùng một lúc trên toàn vùng sông nước Cửu Long. Trên dòng nước cuồn cuộn chảy ra
các cửa biển, hễ ở vùng Tân Châu, Châu Đốc nước giựt xuống thì vùng Cần Thơ,
Vĩnh Long ở hạ lưu nước lại bắt đầu dâng lên, ngập tràn bờ, tràn đồng, rồi cũng
lại hạ xuống, giống như hiện tượng xảy ra trong bình thông nhau. [1]
Cùng
với con nước đỏ ngầu mang đẫm phù sa, là các loại cá lội theo vào ruộng đồng đẻ
trứng, cho đến thời kỳ nước giựt thì loại nước cỏ vàng sậm từ trong các đồng ruộng
chảy ra, cùng với vô số cá lúc nhúc từng đàn, nhất là loại cá linh, ùa theo
nhau tràn vào các kinh rạch để ra sông lớn. Cho nên đến mùa nước giựt, chưa bận
mùa cấy trồng, người nông dân đóng đáy bắt cá suốt dọc theo các kinh rạch này,
có thời điểm trong mấy thập niên trước đây cá nhiều tới mức lưới không chịu nổi
phải giở lên thả cá cho đi bớt; bằng không thì sẽ bị rách lưới. [Hình I]
Hình I: Sinh hoạt trong Mùa Nước Nổi 2000
[nguồn: photo by Ngô Thế Vinh]
Nhưng
rồi hiện tượng cân bằng sinh thái tự nhiên đó hầu như không còn nữa. Và “mùa nước
nổi” nếu chưa hoàn toàn biến mất thì cũng đã giảm rất nhiều cả về tần suất lẫn
cường độ. Hiện tượng đó không phải do thiên tai mà là “nhân tai” một thứ thảm họa
môi sinh/ ecological disaster do chính con người gây ra.
NĂM NAY KHÔNG CÓ MÙA NƯỚC NỔI
Mới
đây thôi, từ e-mail một người bạn gửi cho, khi anh ấy đọc thấy trên facebook của
nhà văn Nguyễn Đình Bổn, ghi nhận năm nay không có “mùa nước nổi” khiến những
ai từng theo dõi con sông Mekong không thể không quan tâm. Nguyễn Đình Bổn
không phải gốc gác dân ĐBSCL mà sinh quán tại Quảng Nam, sau 1975 từ tuổi nhỏ
13 theo gia đình vào sống tại một vùng quê của miền Tây ngót 20 năm và đã nảy
sinh bao nhiêu tình cảm gắn bó với vùng đất mới này. Mới đây trên trang
facebook cá nhân anh viết:
“Gần
hết tháng 8 âm lịch, cậu em vợ lên chơi, hỏi nước có ngập không, lắc đầu. Vậy
là năm nay miền Tây không có mùa nước nổi! Mưa giữa chiều. Nhớ một nơi không phải
là quê hương nhưng thương như thương người thân thiết. Nhớ gần 40 năm trước, lần
đầu biết mùa nước nổi là gì. Nước phù sa miệt Hậu Giang bỗng trong xanh, dòng
chảy trên các kinh lững lờ, không có nước ròng. Và đủ loại cá tràn về, cá linh,
cá thiểu, cá vồ… và đặc biệt là cá trê trắng, nấu canh chua bông súng hay bông
so đũa ngon lạ lùng… Miền Tây còn đó nhưng môi trường đã quá nhiều thay đổi
theo chiều hướng xấu. Hết Tàu đến Thái Lan, Lào, Miên thay nhau xây đập trên
dòng Mekong. Và thực tế nghiệt ngã mất mùa nước nổi đã hiện tiền. Không có mùa
nước nổi, miền Tây mất phân nửa bản sắc của mình, đáng sợ hơn không có lũ tràn
về, ruộng đồng sẽ nhanh chóng bị nước biển xâm nhập, và vựa lúa sẽ còn không?”
Hết trích dẫn.
Ngày
hôm sau, người viết nhận được thêm một e-mail của một bạn trẻ từ vùng Thất Sơn
Châu Đốc cho biết: “mùa nước năm nay nhỏ đến thất thường“, rồi anh ấy tự
hỏi: “phải chăng các con đập thượng nguồn sông Mekong đang tích nước?”
NHỮNG GỐC RỄ “NHÂN TAI”
Từ Nạn Phá Rừng:
Những
khu rừng mưa / rainforest từ xa xưa vẫn mang chức năng điều hợp,
giữ lại trong lòng đất một lượng nước mưa quan trọng từ thượng nguồn thì nay
không còn nữa, khi cơn mưa đổ xuống thì không những nước mưa sói mòn làm trơ đất
và nước mưa thì cứ thẳng chảy ra ngoài dòng sông, tức thời làm tăng khối lượng
nước và trong ngắn hạn mực nước sông đột ngột dâng cao khi có mưa nhiều ở thượng
nguồn.
Những
năm gần đây do ảnh hưởng nạn phá rừng tự sát – suicidal deforestation,
của các quốc gia lưu vực sông Mekong: của người Tàu trên Vân Nam, của người Lào
người Cam Bốt ở vùng Hạ Lưu sông Mekong với hai đồng lõa giấu mặt là Thái Lan
và Việt Nam, khiến cho người dân Việt nơi ĐBSCL càng thêm khốn khổ: tới mùa mưa
lũ đổ về sớm hơn, nhanh hơn lại lớn hơn khiến nhà nông trở tay không kịp gây tổn
hại nặng mùa màng và cả về nhân mạng. Và tiếp đến mùa khô do không còn những
khu rừng mưa như những tấm bọt biển khổng lồ giữ nước nên hậu quả tất yếu là hạn
hán.
Tin
Reuters gửi đi từ Nam Vang, “Nhóm Môi Sinh Anh – Global Witness tố cáo các
nhà lãnh đạo quân sự Việt Nam đã dính líu đến vụ đốn rừng lậu đại quy mô, đe dọa
hủy hoại các khu rừng cấm của Cam Bốt. Những cây gỗ quý bị đốn bừa bãi ấy được
đưa qua ngả Gia Lai, Sông Bé để chuyển xuống cảng Quy Nhơn hay Sài Gòn trước
khi xuất cảng.” Bản tin ấy viết tiếp, “Một vụ làm ăn buôn bán lớn lao
như thế, bất chấp luật pháp phải là kết quả của sự tham ô và đồng lõa ở cấp
chánh quyền cao nhất của hai nước.” Một tình huống tương tự không kém nguy
hại cũng đã diễn ra trong các khu rừng mưa trên đất nước Lào. [2]
Đồng
lõa phá rừng mưa, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã và đang trực tiếp “tự gây
ra một thảm họa môi sinh – self-inflicted ecological disaster,” với
hậu quả lâu dài không chỉ ở đồng bằng châu thổ mà trên khắp ngả sông rạch và
nguồn nước của cả một quốc gia.
Đến
Những Hồ Chứa Đập Thủy Điện:
Với
những hồ chứa khổng lồ từ chuỗi các con đập bậc thềm Vân Nam / Mekong
Cascades mà Tàu đã và đang xây trên thượng nguồn sông MK, cộng thêm những
con đập Lào và Cam Bốt đang xây thì “mùa nước nổi” ở ĐBSCL có thể rồi ra sẽ
hoàn toàn biến mất.
Chức
năng của những hồ chứa thủy điện khổng lồ — trên lý thuyết là tích trữ nước
trong mùa mưa lũ để sử dụng trong mùa khô. Nhưng khi các hồ chứa ở thượng lưu
tích nước thì lưu lượng lũ đổ về hạ nguồn sẽ ít hơn. Không còn lũ đổ về có
nghĩa là không còn “mùa nước nổi“. Với hậu quả là Biển Hồ Tonlé Sap trên
Cam Bốt sẽ không được làm đầy, và vào mùa khô nước từ Biển Hồ chảy về ĐBSCL ít
đi và đồng thời với mực nước biển ngày một dâng cao/ Sea Level Rise thì
nạn nhiễm mặn ngày càng gia tăng trầm trọng.
Hình II: Diện tích Biển Hồ Tonlé Sap
co giãn với hai mùa mưa nắng
IIa (trái) Mùa Khô; IIb (phải) Mùa Mưa
[nguồn: Tom Fawthrop]
[nguồn: Tom Fawthrop]
Để
tự bào chữa cho các con đập thủy điện Vân Nam, các công trình sư thủy điện Tàu
đã lý luận rằng các hồ chứa đập thủy điện ở thượng lưu mang chức năng điều hòa
dòng chảy con sông Mekong: giữ nước trong Mùa Lũ làm giảm lũ lụt hạ nguồn và rồi
trong mùa khô cũng vẫn những con đập ấy xả nước xuống hạ lưu nhiều hơn lưu lượng
tự nhiên do có sẵn lượng nước ở những hồ chứa tích từ mùa lũ năm trước, nhưng
hiện thực thì không đơn giản như vậy.
Bởi
vì chính những con đập thủy điện thượng nguồn đã phá hủy chu kỳ điều hợp thiên
nhiên vô cùng kỳ diệu của con sông Mekong. Khi mà các hồ thủy điện ngăn chặn
nguồn nước lũ trong Mùa Mưa từ thượng nguồn cũng chính là nguyên nhân triệt
tiêu “mùa nước nổi” nơi ĐBSCL. Để rồi sang Mùa Khô, nguồn nước ấy lại bị chính Trung
Quốc, Thái Lan, Lào và Cam Bốt cùng chuyển dòng/ diversion lấy
nước từ con sông Mekong cho nhu cầu nông nghiệp nên Cửu Long càng thêm cạn
dòng. Nhà nông học Võ Tòng Xuân đã từng ghi nhận:
“Chúng
tôi đã chứng kiến những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên khắp các vùng
Đông Bắc Thái, Nam Lào và Cam Bốt, đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể
trong vùng. Nhiều năm qua, nguồn nước cung cấp cho các vụ lúa mùa khô nơi ĐBSCL
đã bị sút giảm nghiêm trọng, hậu quả là nạn nhiễm mặn tiến sâu vào đất liền xa
tới 80 km và gây tổn hại cho mùa màng.” [26-10-2013]
Và
như vậy, theo kỹ sư thủy học Đỗ Văn Tùng từ Canada thì ĐBSCL đã và đang chịu “tai
họa kép” thiếu nước cả trong mùa lũ lẫn mùa khô! Cũng vẫn theo anh, thì bắt
đầu từ giữa tháng 8/2015 mực nước ở Biển Hồ trụt khoảng 1.3 mét trong vòng 10
ngày là một điều bất thường. Đối với một Biển Hồ lớn như Tonlé Sap thì ngay cả
khi không có nước chảy vào hồ thì mực nước hồ cũng thay đổi rất ít vì chỉ bị mất
nước do bốc hơi, nên phải kể thêm yếu tố chuyển dòng/ diversion, lấy
nước ra khỏi hồ tiêu tưới cho những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên
Cam Bốt, như vậy đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể nơi cuối nguồn là
ĐBSCL.
Theo
KS Phạm Phan Long Viet Ecology Foundation, tình trạng mực nước Biển Hồ Tonlé
Sap, theo đồ biểu của Ủy Hội Sông Mekong / MRC, thì hai tháng nay mực nước
xuống thấp dưới cả mức thấp kỷ lục năm hạn hán 1992. Mưa ngày càng ít
đi, mà hồ chứa đập thủy điện với trữ lượng ngày càng lớn hơn và nhiều thêm,
hậu quả là Biển Hồ Tonlé Sap tránh sao cho khỏi trơ đáy và ĐBSCL làm sao còn “mùa
nước nổi“. Tình trạng tai họa kép đã xảy ra vào cả hai Mùa Mưa lẫn Mùa
Khô, và còn là “tai họa kép” của nhân tai lẫn thiên tai. [3] http://ffw.mrcmekong.org/stations/pre.htm
Hình III: Mực nước Biển Hồ Tonlé Sap,
theo đồ biểu của Ủy Hội Sông Mekong
thì hai tháng nay [9 & 10] mực nước
xuống thấp dưới cả mức thấp kỷ lục năm hạn
hán 1992 [nguồn: MRC]
ĐBSCL VÀ HỘI CHỨNG LUỘC ẾCH
Trên báo chí truyền thông, người ta hay dùng “giai
thoại luộc ếch” như một ẩn dụ/ metaphor. Đó là nếu ta bỏ một con ếch
vào nồi nước nóng, thì con ếch sẽ có phản ứng và nhẩy ngay ra khỏi nồi nước.
Nhưng nếu ta đặt ếch vào một nồi nước lạnh, để ếch ngồi trong đó, rồi từ từ
nâng nhiệt độ lên, một cách rất chậm thì con ếch vẫn thoải mái ngồi trong đó và
không nhúc nhích, cho đến khi con ếch bị luộc chín từ lúc nào mà chính nó cũng
không biết.
Trên
thực tế, thì con ếch sẽ nhẩy ra khi nước bắt đầu nóng. Nhưng không sao, “Hội
chứng Luộc ếch/ Boiling Frog Syndrome” vẫn có một ý nghĩa ẩn dụ rất hữu ích
khi muốn nói tới tình trạng con người bị “mất khả năng phản ứng” đối với
những mối hiểm nguy đến rất từ từ / gradual threats.
Al
Gore nguyên Phó Tổng Thống Mỹ, đồng chia giải Nobel Hòa Bình 2007 do nỗ lực phổ
biến kiến thức về biến đổi khí hậu do con người gây ra/ man-made
climate change và xây dựng nền móng cho những biện pháp chống lại sự
biến đổi ấy. Trong cuốn phim An Inconvenient Truth (2006) Al
Gore cũng đã dùng ẩn dụ “con ếch luộc” để nói tới sự “vô minh” của con người
trước hiện tượng “hâm nóng toàn cầu/ global warming” nhưng trong cuốn phim ấy,
con ếch đã được cứu sống. [4]
Cũng
không phải là quá đáng nếu đem ví Đồng Bằng Sông Cửu Long đang trở thành một
“con ếch luộc”, đang đi dần vào một “Cái Chết Tiệm Tiến của Thế Kỷ” với
hơn 20 triệu cư dân thì vẫn cứ đang sống lặng lẽ trong đó, không có phản ứng gì
trước một thảm họa đến rất từ từ và không thể thấy ngay một cách “nhãn tiền”
cho đến khi tất cả một Vùng Châu Thổ cùng với một Nền Văn Minh Miệt Vườn đã bị
chìm sâu trong một biển mặn.
NGÔ THẾ VINH
California, October 12, 2015
California, October 12, 2015
Tham
Khảo:
1/ Đọc tác phẩm Cửu Long Cạn
Dòng, Biển Đông Dậy Sóng. Đỗ Hải Minh, Tập san Thế Kỷ 21, Số 139, 11/ 2000.
2/ Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2000.
3/ Prek Kdam (Tonle Sap), Water Level. Mekong River Commission
http://ffw.mrcmekong.org/stations/pre.htm
4/ An Inconvenient Truth: The Crisis of Global Warming. Al Gore. Viking Books, 1st Edition, April 2007.
2/ Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, Ngô Thế Vinh, Nxb Văn Nghệ 2000.
3/ Prek Kdam (Tonle Sap), Water Level. Mekong River Commission
http://ffw.mrcmekong.org/stations/pre.htm
4/ An Inconvenient Truth: The Crisis of Global Warming. Al Gore. Viking Books, 1st Edition, April 2007.