Chiều Thứ Sáu 29
tháng 5, Hoàng Ngọc Hoà đón tôi với chị Hoàng Bắc từ phi trường West Palm
Beach, Florida về nhà anh Võ Đình. Một căn nhà nhỏ xinh xắn xung quanh là vườn
cây um tùm khá rộng. Khi theo chị Lai Hồng vào phòng, thấy anh nằm yên, thở
mạnh, mắt nhắm. Gọi, không trả lời. Mắt không mở. Một chút cử động nơi môi. Khi
nắm tay, anh bóp nhẹ. Chúng tôi nói vài lời với anh, coi như anh vẫn nghe, vẫn
biết. Và, im lặng.
Anh được đưa về nhà
hôm trước, Thứ Năm ngày 28, sau thời gian nằm trong Trung tâm Phục hồi và Dưỡng
lão ManorCare, từ tháng 10 năm ngoái. Mỗi ngày, chị Lai Hồng vào từ chiều, ngủ lại
đêm trong đó. Chị chuyện trò, chăm sóc, kể chuyện, đọc emails, đọc sách cho anh
nghe, giúp bón anh ăn. Ban ngày, chị về nhà mấy tiếng đồng hồ rồi trở lại.
Tuần trước đây, anh
viết xuống vài chữ ngỏ ý muốn về nhà. Anh muốn hưởng những ngày cuối cùng trong
nhà mình. Anh muốn nghe Kinh Cầu an, và Bát Nhã Tâm Kinh. Về thăm anh, ngoài
chúng tôi, có cháu Quang Minh (con trai chị Lai Hồng), anh Đinh Cường và Eddie
Ramsburg. Hai người con gái của anh là Phượng
Nam và Linh Giang, ngày mai Thứ Bảy đến. Một vài bạn bè thân, như anh chị Trần
Đình Hoành/Túy Phượng, trên đường lái xe từ Virginia. Những người bà con, như
anh Phan Nhật Nam, đến vào tuần tới.
Eddie học vẽ với anh Võ
Đình từ những ngày anh còn ở trên vùng núi Maryland, và hơn mười năm trước đã
lái U-Haul chở đồ đạc của anh chị từ Maryland về Florida. Hiện thời Eddie dạy
vẽ ở Frederick, Maryland, và cũng là một họa sĩ có nhiều triển lãm cá nhân, với
nhiều đam mê. Khi trở ra ngồi ở phòng khách, nói chuyện và xem những hình chụp
tranh của Eddie, tôi thấy có chút bóng dáng Võ Đình trong đó. Dễ hiểu, vì Eddie
được xem là một đệ tử ruột của anh và rất kính trọng anh.
Tôi không nhớ chính
xác lần đầu tiên tôi gặp anh Võ Đình là vào lúc nào, ở nơi nào. Nhưng tôi nhớ
lúc đó anh đang nói về những bức tranh anh vẽ trong thời gian anh ở với cháu
Phượng Nam khi cháu chỉ mới hai, ba tuổi. Buổi tối đó, anh ngâm Ngậm Ngùi của
Huy Cận. Giọng anh mạnh, ấm. Rất đặc biệt. Không giống một giọng ngâm nào tôi
đã từng nghe. Tôi cũng không nhớ là từ lúc nào anh trở thành một bạn vong niên
của tôi, chắc cũng gần 30 năm. Rồi, năm sáu năm sau, anh trở thành một người
thân trong gia đình. Mỗi lần anh đến, má tôi kho cho anh món cá rất đặc biệt
của bà. Trong nhà tôi, anh đã ngâm rất nhiều thơ. Tôi thích nhất khi anh ngâm
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm.
Bao nhiêu biến đổi
trong đời anh, đời tôi, kể từ những ngày mới quen nhau. Bao nhiêu chuyện,
truyện anh đã viết. Bao nhiêu tranh anh đã vẽ. Bao nhiêu sách anh đã dịch, đã
minh họa, đã xuất bản. Bao cuộc tình đến, rồi đi. Bao sóng, gió. Bao thăng,
trầm! Bao lặng lẽ... Có những lúc, anh ngồi thuyết trình, nói mê man, sang
sảng, vài trăm người chăm chú lắng nghe. Rồi có lúc, nhìn quanh, ngoài những
bạn trẻ của anh vốn hài hòa với cuộc đời, như Đinh Cường, như Văn Hưng, như
Đặng Đình Khiết, như Ngô Vương Toại, như Giang Hữu Tuyên, như Hoàng Ngọc Hoà,
hay tôi, không biết có mấy ai gật đầu với anh.
Anh là một người khó
tánh (có người gọi đùa là “khó tiền sử”), hầu như ai cũng biết. Nhưng anh cũng
là một người rất dễ tính. Điều đó hầu như ai cũng biết. Chỉ khác là cái anh khó
với cái anh dễ, thường không giống với cái nên dễ, nên khó trong thường tình.
Với tôi, những cái khó tánh của anh đã gây nên không biết bao tranh cãi giữa
anh với tôi, nhưng cũng chính từ đó mà tôi gần anh hơn, thương và kính trọng
hơn. Ít nhiều, chính cái khó tánh đó đã tạo cho anh một thế giới riêng mà từ đó
anh mang đến những cống hiến lớn cho văn học, nghệ thuật và cho cuộc đời.
Anh là một tác giả
thành tựu, trong cả hai lãnh vực văn học và hội họa. Công trình của anh và giá
trị văn học hay nghệ thuật trong tác phẩm của anh được ghi nhận và phân tích
nhiều trong giới phê bình.
Võ Đình sinh năm
1933, tại Huế, rời quê hương rất sớm, vào lúc 17 tuổi, và sống luôn ở Pháp, rồi
ở Mỹ. Anh chỉ về thăm Việt Nam vài lần, mỗi lần trong thời hạn rất ngắn. Rất
giống hoàn cảnh của lớp trẻ Việt Nam thuộc thế hệ một rưỡi hay thứ hai của cộng
đồng Việt hiện nay.
Văn của Võ Đình không
dễ đọc, tranh của Võ Đình không dễ xem. Bởi luôn hàm chứa những phức tạp của
đời sống, những độ sâu trong suy tưởng, và những rung động của con người. Đọc
văn anh, xem tranh anh, hay ngồi nói chuyện với anh, chúng ta rất dễ thấy nơi
con người thoạt nhìn có vẻ bình dị, ảnh hưởng sâu đậm của ba nền văn hoá Việt,
Pháp, Mỹ, và biểu lộ những ảnh hưởng đó một cách tự nhiên, không mặc cảm, khi
khen như khi chê. Anh thích nhìn con người hay xã hội trên khía cạnh văn hóa,
và nhìn sự vật, cây cỏ ở cái đẹp mà tạo hóa mang lại, dù đó chỉ là một con nhái
bén hay những thứ “rau cỏ hèn mọn”.
Anh đề cao tính sáng
tạo, rất dị ứng với những cách nhìn hời hợt, những cách nhìn theo thói quen,
những cách lập đi lập lại mà anh cho là phát sinh từ sự lười biếng trong suy
nghĩ. Anh luôn đề cao sự đam mê, hay cách sống hết lòng, cho một niềm tin, hay
vì một mục tiêu nào đó, cho dù mục tiêu đó chỉ là để...chơi. Tỉ như, khi anh
viết về thú chơi xe lửa của một hưu trí viên 65 tuổi. Chơi, nhưng chơi...thiệt.
Anh trân trọng công
trình của người khác, nếu đó là một công trình có chất lượng hay được thực hiện
hết lòng. Anh có thể nói say sưa, qua ngòi viết, hay qua những câu chuyện trao
đổi với bạn bè, về tranh của Cézanne, của Gauguin, Van Gogh, hay của Đỗ Quang
Em; hay bài phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, truyện ngắn của Võ Phiến, của Trần
Vũ... Nói với tất cả sự trân trọng, như đã may mắn nhận được những món quà thật
quí giá. Vào những lúc như vậy, qua những nhắc nhở có vẻ như vô tình đó, người
đọc hay người đối thoại có thể chợt nhận ra sự may mắn của mình vì đã có biết
bao nhiêu món quà quí giá mà đời sống đã mang lại, mà chính những người mang
lại chưa chắc đã được chút gì may mắn cho họ, ngoài tài năng và lòng đam mê.
Van Gogh chẳng hạn, ông cống hiến cho chúng ta bao nhiêu tác phẩm tuyệt vời,
nhưng cho đến chết ông sống khổ cực, chỉ bán được một bức tranh, và cuộc đời
ông là một bi kịch lớn.
Khi viết về Võ Đình,
có một yếu tố nổi bật không thể không nói đến. Đó là yếu tố Việt Nam trong con
người anh, biểu lộ rõ nét trong tác phẩm hay trong đời sống hàng ngày. Anh viết
tiếng Anh rất giỏi, dĩ nhiên, vì anh lớn lên và sống gần như cả đời ở Mỹ. Và
tiếng Pháp cũng giỏi vì anh đã học ở Pháp. Nhưng tiếng Việt của anh, khi anh
viết hay khi anh nói, nếu không biết không ai dám nghĩ rằng kể từ năm 17 tuổi
cho đến quá tuổi tri thiên mệnh, cho đến những ngày cuối cùng, anh chỉ sống ở
Việt Nam tổng cộng có vài tháng. Không phải chỉ hay thôi, nó đạt đến phần vi tế
nhất của ngôn ngữ mà những nhà văn tài hoa và khó tánh nổi tiếng về cách dùng
tiếng Việt cũng phải khâm phục.
Anh mê và hiểu biết
sâu sắc ca dao Việt Nam. Khi sống hay khi viết, anh thường nghĩ đến từng câu,
nhập vào thật đúng lúc của nó. Chẵng hạn, sống ở Florida, nước Mỹ, nhưng khi
nhìn thấy một con nhái nằm thù lu trong mấy cái lá, anh nhớ đến một câu ca dao
thật rầu: Chiều chiều bắt nhái cắm câu/
Nhái kêu cái ẹo, thảm sầu nhái ơi.
Anh hiểu biết rất rõ
lịch sử Việt Nam, nhưng không chỉ dừng lại ở hiểu biết, anh sống với những
thăng trầm của lịch sử. Anh cảm nhận sâu sắc về cuộc Nam tiến, nhưng không chỉ
dừng lại ở nét hùng tráng về công trình mở mang bờ cõi, mà anh cảm thông thật
sự tâm trạng, đời sống những con người bình thường, cô đơn, vật lộn hàng ngày
với thiên nhiên, khi được đẩy vào những vùng đất xa xôi ở miền Nam đang còn rất
hoang dại. Vì thế, anh đã viết với tất cả sự ngưỡng mộ chân tình truyện ngắn
Rừng Mắm của Bình Nguyên Lộc mà anh cho là một trong những truyện ngắn xuất sắc
nhất của văn học Việt Nam. Về lịch sử Nam tiến, anh ngưỡng mộ những chiến
thắng, nhưng bên cạnh đó, anh đưa ra những trách móc tế nhị, trách móc về cách
đối xử không đẹp của vua chúa Việt với những người Chiêm thất trận, như đã giết
vua người, lại còn rắp tâm chiếm vợ vua người, để đến nỗi vương phi Mị Ê của
Chiêm Thành, quấn chiên, lăn xuống sông tự tử.
Trong đời sống hàng
ngày và trong tác phẩm, Võ Đình thường để tự mình hụp lặn vào những tháng ngày
đen tối nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại. Cách đây 36 năm, tức hai năm trước
khi cuộc chiến chấm dứt, vào thời kỳ sôi động nhất, anh trở về thăm quê hương
lần đầu. Trong một bài viết sau đó, anh cho biết, anh gặp một vũng nước mà anh
có cảm giác như chính đó là vũng nước khi còn bé anh thường đến và đùa nghịch
trên đó. Anh cũng cho biết, khi đi lại trên những con đường ở Huế mà anh từng
đi lại vào những ngày thơ ấu, anh có những cảm giác rất mạnh, rất thật, như
chính anh đã đụng vào những hồn ma đang đi, đang chạy xung quanh, hồn ma của
những con người vô tội dìu dắt nhau chạy tán loạn vào những ngày kinh thành
thất thủ gần một trăm năm trước.
Thời gian đó, ở Mỹ,
anh sống trong một căn nhà cũ, trên một vùng núi ở Maryland, gọi tên là
Stonevale, Thạch Lũng. Xung quanh nhà có một hàng rào dài làm bằng những miếng
đá dẹp chồng chất lên nhau, do những người nô lệ làm nên từ hơn hai trăm năm
trước. Tôi có đến thăm anh ở đó, vài năm sau chuyến thăm quê hương của anh. Một
người thân của anh có kể lại, khi đón anh trở về, chị có linh cảm lạ lùng là
dường như có một vài bóng ma đã theo anh từ Việt Nam trở về và đang cùng anh
bước vào nhà.
Võ Đình thích sống
gần thiên nhiên. Ngoài mê say vẽ, viết và đọc sách, anh thích làm lụng và nhìn
ngắm cỏ cây, sống điều độ và ăn uống thanh đạm. Anh rất khỏe mạnh, hơn nhiều
người cùng tuổi. Cách đây khoảng hơn hai năm, anh bỗng yếu đi hẵn. Đi không
vững, rất dễ té, và mắt thường bị chói ánh sáng. Anh đi bác sĩ thuờng xuyên, và
có khi vào Trung tâm Phục hồi, ban đầu ngắn hạn rồi ở dài hạn, nhưng bác sĩ
không tìm ra đúng bệnh. Chỉ mới đây, giữa tháng hai, bác sĩ chuyên khoa não cho
biết anh bị chứng PSP (Progressive Supranuclear Palsy), một loại suy thoái não
chưa có thuốc chữa. Anh phải vào ở hẳn trong khu dài hạn. Ngày càng yếu đi.
Có nhiều người đàn bà
đã đi qua đời anh, nhưng tôi nghĩ, cuộc nhân duyên sau cùng, với chị Lai Hồng,
chính thức khởi đầu từ 16 năm trước đây và có thể đã bắt nguồn từ lâu lắm, là
mối nhân duyên đem lại sự bình an nhất trong đời anh. Trong cuộc nhân duyên
này, anh tìm được sự chia xẻ về nguồn cội, về chữ nghĩa, về nghệ thuật, về
tương kính. Và, rất khó để không nhận thấy là anh đã nhận được một chăm sóc tận
tình, một sự thông cảm và kiên nhẫn gần như vượt quá khả năng của con người. Nỗi
lo sợ lớn nhất của người thân, bạn bè, và cả nhân viên Trung tâm ManorCare, là
chị có thể quỵ xuống trước.
Trưa Thứ Bảy, 30
tháng 5, chúng tôi dự lễ Cầu an tại nhà anh do hai ni cô Chùa Lộc Uyển chủ trì
cùng với anh chị Nguyễn Trà/Thanh Trúc của Hội Phật giáo Nam Florida và một số
đạo hữu. Cả gia đình Hòa đều có mặt. Sau đó, Đinh Cường và anh Diệp Bảo Chương,
bạn của Cường và anh chị Võ Đình, đến. Phượng Nam và Linh Giang từ Maryland cũng
đến ngay sau đó. Phượng Nam và Linh Giang là con gái của anh Đình với hai người
vợ Mỹ. Cũng đã hơn 15 năm tôi mới gặp lại Linh Giang và hơn 25 năm gặp lại
Phượng Nam. Các cháu không nói được tiếng Việt, và với những ai không biết, khi
gặp đều nghĩ đây là những người Mỹ hoàn toàn.
Phượng Nam nổi tiếng
do một bức tranh anh vẽ năm cháu khoảng bốn tuổi, trong chiếc áo dài Việt Nam
màu vàng, tay cầm một chong chóng nhỏ. Bức tranh được tổ chức UNICEF chọn làm
postcard chính thức phát hành nhân Ngày Trẻ Em Thế Giới. Tôi rất mừng thấy
Phượng Nam đến. Phượng Nam hay xung khắc với papa và chắc cũng lâu lắm rồi
không gặp papa. Mọi người đều nói có lẽ tính khí của Phượng Nam quá giống anh.
Linh Giang hơi khác
chị, rất dịu dàng. Khi mới lên đại học, cháu có học toán với tôi, được một buổi
rồi thôi. Khi gặp lại, cháu không nhắc lại bài học toán mà nhắc lại những bài
học đầu tiên về guitare mỗi lần lên chơi Thạch Lũng tôi có dạy cho cháu. Hiện
thời cháu dạy guitare ở một trung tâm âm nhạc vùng Maryland. Tôi nói với cháu
thật ra guitare là môn tôi dốt nhất, và có thể trong tương lai nếu sức khỏe cho
phép tôi sẽ đến học guitare với cháu.
Đây không phải là lần
đầu tiên hai cháu gặp Eddie. Phượng Nam và Linh Giang đều không theo hội họa
như papa, nhưng khi xem hình chụp những bức tranh của Eddie, Phượng Nam rất
thích và hứa khi về lại Maryland sẽ ghi tên theo học lớp họa của Eddie. Tôi
thấy vui, vì biết đâu, qua đó, “hạt nhân hội họa” của Võ Đình sẽ được gieo lại
cho con mình một cách gián tiểp. Sau buổi gặp gỡ đó, Eddie vội vã ra phi trường
về Frederick và hứa tuần sau trở lại.
Hôm Thứ Bảy đó, anh
đã yếu lắm. Khi nói chuyện và nắm tay anh, không thấy anh bóp nhẹ như hôm qua.
Tuy nhiên, chị Lai Hồng cho biết, sáng Thứ Bảy đó, bỗng nhiên anh mở mắt lớn
nhìn chị, thều thào được mấy tiếng “Hồng ơi!
Hồng ơi! Hồng ơi! …” rồi nở nhẹ nụ
cười thật hiền, tay nắm chặt tay chị đưa lên đưa xuống. Chị linh cảm... Buổi
chiều, khi hai cháu Phượng Nam và Linh Giang đến, cúi xuống ôm anh, “Papa, this is Phượng Nam. Papa, this is
Linh Giang!”, tôi thấy môi anh hơi mấp máy.
Hai cháu cầm tay anh. Bất động. Nhưng mấy giọt nước mắt chảy dài trên
phía trái…
Chiều hôm sau, chúa nhật
31 tháng 5, 2009, chúng tôi trở lại. Vài phút sau đó, anh chị Nguyễn Trà/ Thanh
Trúc cũng đến, trong những chiếc áo lam truyền thống. Tôi cầm tay anh Đình,
không thấy chút phản ứng. Sau đó, khi đang ngồi nói chuyện trong phòng khách,
có người ra cho biết cô y tá báo động. Chúng tôi - Đinh Cường, Hoàng Bắc, anh
Chương, Hoà, cháu Quang Minh và tôi - bước vào phòng. Chị Lai Hồng, anh chị
Trà, Phượng Nam, Linh Giang và cô y tá Mỹ đã có mặt ở đó. Chúng tôi đứng quanh
giường anh. Cháu Linh Giang ngồi dưới đất, ngoài cánh cửa gương lớn ngăn cách
phòng anh với vườn sau. Cháu ngồi im, mắt nhắm, trong tư thế tọa thiền, tay
chắp lại. Hơi thở anh yếu dần. Chị Lai Hồng đứng yên, im lặng một cách lạnh
người. Anh chị Trà bắt đầu tụng kinh Thủy Sám. Rồi, đọc kinh Bát Nhã.
“...Xá Lợi Tử nghe đây: Thể mọi pháp đều không. Không sanh
cũng không diệt. Không nhơ cũng không sạch. Không thêm cũng không bớt. Cho nên
trong tánh không, không có sắc, thọ,
tưởng. Cũng không có hành thức. Không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý (sáu
căn). Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (sáu trần). Không có mười tám
giới. Từ nhãn đến ý thức không hề có vô minh. Không có hết vô minh. Cho đến
không lão tử. Cũng không hết lão tử. Không khổ, tập, diệt, đạo. Không trí cũng
không đắc...”
Hơi thở anh yếu dần.
Anh chị Trà, chuyển sang tụng kinh A Di Đà, nguyện cầu ngài Tiếp Dẫn Đại Sư đưa
một linh hồn về nơi Tịnh Độ. Nam mô A Di
Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật,... Tiếng tụng nhỏ, đều
đều, như âm vang từ một cõi xa xôi nào vọng lại.
Hơi thở anh yếu dần.
Yếu dần. Rồi ngưng hẵn. Ngọn đèn trên bàn cô y tá, cạnh chị Lai Hồng, vụt chớp
rồi tắt. Đúng 6 giờ 20 chiều. Chúng tôi vội bước đến gần anh. Cháu Phượng Nam
đến ôm mặt anh, “Papa, this is Phượng
Nam!” Cháu Linh Giang ngồi yên trong tư thế tọa thiền. Chị Lai Hồng đứng
yên cuối giường, im lặng. Dù đã dặn trước không được tỏ xúc động, Hoàng Bắc vẫn
khóc.
Chúng tôi lần lượt
nói lời vĩnh biệt. Khoảng 10 giờ tối, tất cả ra về, chỉ còn lại chị Lai Hồng
với các cháu...và anh.
Tôi nhớ lại rất rõ,
nét mặt anh, điệu bộ anh, giọng sang sảng của anh, khi ngâm Tống Biệt Hành của
Thâm Tâm. “Đưa người ta không đưa qua
sông...”
Trương VŨ
Maryland, tháng 6 năm 2009
Trương VŨ
Maryland, tháng 6 năm 2009
Võ Đình, Trương Vũ, Trần Thị
Lai Hồng, và Huỳnh Sanh Thông
(Maryland, 1996).
Chó, Đại Học George
Mason, Virginia, 2004
Tranh Võ Đình: Nocturne, chất liệu acrylic trên ván ép,
thực hiện vào thập niên 1980
(sưu tập của gia đình Trương Hồng Sơn)
Tranh Võ Đình: Nocturne, chất liệu acrylic trên ván ép,
thực hiện vào thập niên 1980
(sưu tập của gia đình Trương Hồng Sơn)