Thursday, November 12, 2015

172. Thơ NGUYỄN LƯƠNG VỴ Trăm năm Bích Khê


TRĂM NĂM BÍCH KHÊ
Nguyễn Lương Vỵ


Bích Khê  (1916-1946)


Bích Khê

Gờn gợn bóng huyền hồ 
Kiếp tài hoa bạc mệnh 
Tinh Huyết đọng mùa Thơ 
Biết bao giờ Em đến?! . . .
5.1973


Cảm ứng Bích Khê

Em bí mật chôn ta 
Trong tinh hoa của sắc 
Trong hiu hắt của màu 
Trong tiếng vang thời khắc 
Gọi là lộc khổ đau

Lộc khổ đau tươi rói 
Xuân Tượng Trưng phúc trời 
Ta chết ngay trong lời 
Lộc biếc vang một ý 
Nở thanh khí một trời

Núi Thiên Ấn ngủ vùi 
Sông Trà chảy xót ruột 
Thơ ta ngún một nùi 
Tinh Huyết ngân một giọt 
Em bí mật hoài thai

Hài nhi bọc tinh âm 
Khóc xanh hết bờ cõi 
O oe hồng tiếng nói 
Kiến trúc chín bậc trầm 
Mười bậc cao vòi või

Thơ lạ như thần ưng 
Âm thương đau móng sắc 
Ta chết ngay tức khắc 
Giữa trời Xuân Tượng Trưng 
Tinh Huyết bỗng thơm lừng . . . 
 
5.2003 
Ghi chú: 
Những chữ in nghiêng là tác phẩm của thi sĩ Bích Khê.


Ứng mộng Bích Khê

Lại ứng mộng Bích Khê 
Cơn ho buốt Thiên Ấn 
Mắt sáng quắc như kiếm 
Ngẩng mặt chào Huyền Không* 
Ngũ Hành Sơn sóng bồng 
Câu thơ nhón từng bước 
Bấu từng bậc đá ngược 
Lượm tiếng chuông tiếng kinh 
Lượm hạt nắng trầm mình 
Phơi hồn chữ trên biển 
Gió luồn vô chánh điện 
Rồi luồn ra ngáp chơi 
Thi nhân hít một hơi 
Thơ trào ngàn búng huyết 
Núi mở ngực đón hết 
Rồi thẳng lưng ngồi quên . . .
  
2008
 
(Viết theo thần khí bài thơ Ngũ Hành Sơn của thi sỹ Bích Khê)
(*) Động Huyền Không – Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng
Trích trong tập thơ Huyết Âm, bài #68


Thu Tỳ Bà

     Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
     Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. 
     
(“Tỳ Bà,” Bích Khê)
  
Thu vang âm tỳ bà 
Âm vang xa vang xa 
Xa xôi A xa xăm 
Mong ai nơi quê nhà

Quê nhà hoa vàng lay 
Thu gầy trên đôi tay 
Tay ngà A hoa âm 
Âm hoa dâng triều ngày

Vàng lay âm vàng rơi 
Thu ơi xin đưa lời 
Lời hoa A so dây 
Dây vang ngân tơ trời

Trời thu rơi sương thu 
Ta ngồi nghe đàn ru 
Tỳ bà A tơ trời 
Rơi rơi rơi đàn thu

Thi nhân tri âm đàn 
Đàn tan theo thơ tan 
Thấm hết nắng cố xứ 
Mênh mông A mênh mang . . .
  
10.2014


Trăm năm Bích Khê

Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông* Ô! Hay trăm năm vang thinh không 
Thi nhân đâu ngờ âm Tinh Huyết 
Tỳ Bà về theo bông triều Đông

Bông triều Đông dâng âm Tinh Hoa 
Ô! Hay trăm năm rưng rưng và 
Thi nhân la thầm khi trăng ứa 
Hương em tan theo hương Thu xa

Hương Thu xa vang thơ Tinh Âm 
Ô! Hay trăm năm thơm hồ cầm 
Thi nhân xoa tay nghe Thiên Ấn 
Sông Trà nhòa trong sương giăng câm

Sương giăng câm vàng rơi vàng rơi 
Ô! Hay trăm năm thơ rền trời 
Thi nhân trong veo hai con mắt 
Dung nhan em huyền hồ xa vời

Huyền hồ xa vời lời bay theo 
Ô! Hay trăm năm như truông đèo 
Thi nhân về ngồi nhìn trăng ướt 
Bông trăng em bên đời đang reo

Đời đang reo ồ bông trăng đêm 
Ô! Hay trăm năm thơ say mèm 
Thi nhân say theo em nhan sắc 
Vàng rơi vàng rơi Thu bay lên

Thu bay lên không gian tươi đàn 
Ô! Hay trăm năm quên thời gian 
Thi nhân xâu âm cầm thu réo 
Bông trăng em lừng hương sương tan

Hương sương tan vàng bay vàng bay 
Ô! Hay trăm năm trầm như mây 
Thi nhân như hài nhi nằm khóc 
Thơ ghi trên mồ âm trăng lay

Âm trăng lay hay âm thinh không 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng* Suối Biếc nắng lắng xuống búng huyết 
Tri ân thi nhân Thu mênh mông. 
 
Cuối Thu, 2015 

Ghi chú: 
(*) Trích trong bài thơ “Tỳ Bà” của Bích Khê


Bích Khê (24.03.1916 -17.01.1946), tên thật là Lê Quang Lương, nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam thời tiền chiến. Ngoài bút hiệu Bích Khê, ông còn ký bút hiệu Lê Mộng Thu khi sáng tác thơ Đường luật. Thuở nhỏ, Bích Khê học tiểu học ở Phước Lộc và Đồng Hới, học trung học ở Huế, rồi ra Hà Nội học ban tú tài nhưng nửa chừng bỏ dở. Năm 1931, 15 tuổi, Bích Khê đã biết làm thơ Đường luật, ca trù. Năm 1934, cùng người chị ruột tên là Ngọc Sương vào Phan Thiết học thêm và mở trường dạy học tư.  Năm 1936, Ngọc Sương bị mật thám Pháp bắt, trường đóng cửa, Bích Khê trở lại quê nhà. Năm 1937, Bích Khê bị bệnh phổi, sau khi điều trị trở về lên sống trên núi Thiên Ấn – Quảng Ngãi, ông lại ngược xuôi trên một chiếc thuyền quanh các ngả Sa Kỳ – Trà Khúc. Năm 1938, Bích Khê lại cùng chị Ngọc Sương (khi ấy đã được ra tù) vào Phan Thiết mở trường dạy học, được vài năm lại bị chính quyền Pháp ra lệnh đóng cửa. Năm 1941, Bích Khê dạy học ở Huế. Năm 1942, bệnh phổi tái phát, Bích Khê trở về Thu Xà thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 17 tháng 1 năm 1946, Bích Khê lìa bỏ cõi đời và cõi thơ tại Thu Xà lúc 30 tuổi.

Cuộc đời của người thi sĩ tài hoa bạc mệnh quá ngắn ngủi, nhưng ông đã kịp hoàn thành ba tập thơ: 
 Những Dòng Thơ Cũ tập hợp các bài thơ cũ được sáng tác trong khoảng 1931-1936 chưa xuất bản. 
 Tinh Huyết được xuất bản vào tháng 12 năm 1939 
 Tinh Hoa được xuất bản trọn vẹn vào tháng giêng năm 1997 (trước đó, đã được trích đăng một số bài trên các sách, báo trước và sau 1975).

(Nguồn tham khảo: wikipedia.org, bichkhe.org)