Q U Á N N H Ư
THE CATCHER IN THE RYE
J.D. Salinger
GIỚI
THIỆU:
J.D.
Salinger (Tên đầy đủ Jerome David Salinger) sinh năm 1919 tại New York trong
một gia đình khá giả. Ông đã học qua khá nhiều trường: trung học McBurney
School (New York), trường quân sự Valley
Forge Military Academy (Pennsylvania), Ursinus College (Pennsylvania), Columbia
University (New York). Chính tại trường Columbia University, Salinger đã gặp
giáo sư Whit Burnett- người đã làm
thay đổi cuộc đời ông.
Whit
Burnett là một giáo sư giỏi, vừa là chủ bút của tạp chí STORY, một tạp chí nổi
tiếng với những truyện ngắn hay. Ông phát hiện ra tài năng của Salinger, nghĩ
rằng Salinger sẽ trở thành một nhà văn lớn, nên khuyến khích Salinger viết
truyện đăng trên tạp chí STORY. Dần dần, truyện của Salinger xuất hiện không
những trên tạp chí STORY mà còn ở nhiều tờ báo danh tiếng khác như COLLIER'S,
THE SATURDAY EVENING POST…
Khi chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ông nhập ngũ, và đã từng tham gia cuộc đổ bộ
Normandie. Sau chiến tranh, ông trở về New York, trở lại với công việc của một
nhà văn. Năm 1951, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết The Catcher In
The Rye , gây một tiếng vang rất lớn, không những ở Mỹ, mà nhiều nước khác
trên thế giới. Cuốn sách tạo ra những cuộc tranh luận khắp nơi, người khen rất
nhiều, nhưng người chê cũng không phải là ít.
Cuối cùng
thì cuốn sách được chọn giảng dạy trong giáo trình bộ môn Văn trong các trường
trung học ở Mỹ và nhiều nước nói tiếng Anh, và đến nay đã có khoảng 120 triệu
cuốn được bán ra trên khắp thế giới. Điều này tự nó cũng đã nói lên được giá
trị của cuốn sách.
Hai năm
sau đó, 1953, ông về sống đời ẩn dật ở New Hampshire, rất hạn chế tiếp xúc với
công chúng. Ngày 19.6.1965, báo The New Yorker đăng truyện ngắn của ông- truyện
HAPWORTH 16, 1924. Đây là truyện ngắn cuối cùng của Salinger xuất hiện trên báo
chí. Từ 1965 đến khi ông qua đời- 2010, tức là trong 45 năm, không thấy có thêm
truyện nào của ông trên các báo, mặc dù trong những năm đó ông vẫn tiếp tục
viết.
Cuốn tiểu
thuyết duy nhất của ông đã xuất bản, The Catcher In The Rye, được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch sang tiêng Việt trước
1975, với tựa đề BẮT TRẺ ĐỒNG XANH.
Dưới đây
là bài viết của Quán Như về cuốn sách này. (Quán Như tên thật Phạm Văn Minh, tốt nghiệp Đại Học
Sư Phạm Sài Gòn năm 1964, và Cao Học Giáo Dục tại Đại Học Sydney năm 1978, sống
ở Úc từ trước 1975 cho đến bây giờ. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách nghiên
cứu về Phật Giáo, trong đó tác phẩm mới nhất là cuốn KINH TẾ PHẬT GIÁO, 2012).
THE CATCHER
IN THE RYE
Q u á n N h ư
J.D. SALINGER
Bắt Trẻ Đồng Xanh và Câu Chuyện Của Dòng Sông được Phùng Khánh và Phùng Thăng
dịch và do nhà xuất bản Lá Bối phát hành khoảng năm 1964-65. Hai tác phẩm này
một sớm một chiều được thanh niên sinh viên thời bấy giờ chào đón nồng nhiệt
và, cùng với một số tác phẩm của Nhất Hạnh, đã tạo ra một không khí hứng khởi
cho phòng trào về nguồn, trở lại nghiên cứu các giá trị tinh thần của dân tộc
Việt Nam, nhất là Phật Giáo.
Nguyên tác của Bắt Trẻ Đồng Xanh là quyển The Catcher In The Rye của J.D.
Salinger được xuất bản lần đầu năm 1951, nghĩa là hơn một thập niên trước khi
bản Việt dịch xuất hiện. Tác phẩm được các nhà phê bình văn học trên New York
Times, San Francisco Chronicle, Philadelphia Enquirer và Times khen ngợi như là
một tác phẩm nổi bật nhất trong năm và nhân vật Holden Caulfield dần dần trở
thành thần tượng của thanh niên Mỹ trong nhiều thế hệ. Vì Holden Caulfield chửi
thề luôn miệng và có khuynh hướng chống đối lại các giá trị cổ truyền như Ki-Tô
giáo, tờ báo The Christian Science Monitor và The Catholic World chỉ
trích Salinger cố tình cổ động cho một lối sống “thiếu đạo đức”. Tuy nhiên
những lời chống đối yếu ớt, dựa trên tiêu chuẩn luân lý sắp sửa bị thanh niên
Mỹ ruồng bỏ, không làm giảm mức độ hấp dẫn và chinh phục độc giả của The
CatcherI In The Rye trong một thời đại mà bị hấp lực của phong trào hướng về
Đông Phương “Go East Young Men” vào các năm cuối thập niên 50. Trong vòng 3
tháng, The Catcher đã trở thành một tác phẩm bán chạy nhất trong danh sách của
tờ Times và tiếp tục qua mặt của các tác giả cổ điển tài danh khác như James
Jones, tác giả From Here to Eternity. The Catcher đồng thời được xuất bản ở Anh
và cũng được các nhà phê bình Anh khen ngợi, mặc dù trước đó nhà xuất bản lo
ngại độc giả Anh có thể có phản ứng tiêu cực vì lối văn “nói” và phương ngữ của
Mỹ. Ba năm sau khi bản dịch tiếng Việt của Phùng Khánh ra đời (1965), tức là
vào năm 1968, the Catcher In The Rye được xem như là một trong năm tác phẩm bán
chạy nhất trong lịch sử văn chương Mỹ kể từ năm 1895. Hiện nay mỗi năm vẫn còn
250 ngàn độc giả bỏ tiền ra mua các ấn bản mới. The Catcher hiện nay được đưa
vào danh sách các tác phẩm giáo khoa dành cho học sinh trung học nghiên cứu.
Năm ngoái khi đứa con trai của tôi mới học lớp 9 được cô giáo bảo đọc và phê
bình The Catcher, tôi có hơi ghen tỵ với nó một chút. Cũng như các thanh niên
thời đó, tôi chỉ được đọc The Catcher sau khi đã học xong đại học, qua bản dịch
của Phùng Khánh. Tôi cho đứa con mượn toàn bộ tác phẩm của Salinger, cùng với
các tác phẩm phê bình và hồi ký của đứa con gái Salinger, bà Margaret. Tôi thú
nhận là hể có ấn bản mới của The Catcher phát hành là tôi mua để trên kệ sách
và hiện có ít nhất là bốn ấn bản The Catcher khác nhau. Đứa con tôi hạ một câu
“You are crazy, Dad!” Nó không hiểu được mức say mê của thế hệ trẻ chúng tôi
bấy giờ đối với Holden và Phoebe, và riêng tôi, tôi cám ơn Phùng Khánh rất
nhiều.
Nhân vật chính, Holden Caulfield, lấy từ tên của một cô đào chiếu bóng sau thế
chiến thứ hai, Joan Caulfiel, mà Salinger xem như là người “trong mộng”.
Holden Caulfield, mới 16 tuổi, cũng như các thanh thiếu niên khác, đang trải
qua cơn khủng hoảng tâm linh. Anh vừa biết tin bị đuổi khỏi trường vì thi rớt
tất cả mọi môn, trừ môn Anh ngữ. Ông Hiệu Trưởng sẽ gởi thư báo tin cho cha mẹ
anh vào ngày thứ Tư, ngày cuối niên khóa. Tuy nhiên Holden quyết định rời
trường vào chiều thứ Bảy và lấy xe lửa về New York. Anh không thể về nhà ngay
được vì sợ cha mẹ khám phá anh lại bị đuổi. Holden cảm thấy bất an, khủng hoảng
và cô đơn giữa đám người mà anh gọi là những phony bastards, giả dối, kệch cỡm,
lố bịch, đạo đức giả. Lang thang giữa thành phố New York, anh chợt nhớ đến mấy
con vịt trong hồ Central Park vào mùa Ðông. Anh tìm cách gợi chuyện với nhiều
người lạ, với người tài xế tắc-xi, lục sổ điện thoại để rủ một người mà anh mới
biết đi uống rượu. Vào quán rượu với một cô bạn gáí, gây gỗ nặng lời và say
lướt khướt. Tựa The CatcherI In The Rye lấy từ một câu trong bài hát của Robert
Burns “Nếu một người nào bắt được một người nào chạy ra từng cánh đồng lúa”.
Tôi tưởng tượng có nhiều đứa trẻ đang chơi một trò chơi nào đó trên một
cánh đồng lúa lớn. Hàng ngàn em, hàng ngàn em đều nhỏ như nhau, không có một
người lớn nào ở gần đó - trừ tôi. Công việc duy nhất của tôi là chờ sẵn ở đó và
hễ khi có một em nào vô ý sẩy chân và sắp sửa rơi xuống từ vách đá, tôi đứng
sẵn ở đó và dơ tay đón bắt từng em. Cả ngày tôi chỉ làm chừng nấy công việc.
Tôi chỉ làm công việc bắt trẻ đồng xanh. Tôi biết đó là một điều điên rồ, nhưng
đó là công việc duy nhất mà tôi thích làm!
Bảo vệ các em khỏi ngã xuống vách đá có nghĩa là bảo vệ sự ngây thơ thuần khiết
để các em, để khi “lớn lên” các em đừng biến thành phonies như biết bao người
mà Holden đã gặp. Holden rất cô đơn mặc dù sống ngay giữa thành phố không bao
giờ ngủ, New York. Holden không có người nào khả dĩ gọi là bạn thân trên
đời. Khi cô em gái Phoebe thách thức Holden, yêu cầu anh cho biết tên một người
mà anh thích nhất. Holden ấp a ấp úng, cuối cùng nhắc tới một người em trai đã
qua đời. Khi Phoebe hỏi lớn lên anh thích làm nghề gì, Holden nhắc tới công
việc điên rồ là bắt trẻ đồng xanh.
Cũng như thế hệ hippies vào các năm 60, Holden không phải là người lạnh nhạt,
quay mặt lại với đời sống. Trái lại anh yêu vô cùng đời sống, trang trọng và
nhạy cảm đối với người khác, yêu tuổi thơ và muốn sống vô tư, tự nhiên và trung
thực. Anh chống đối các hình thức trói buộc về luân lý và xã hội do chính những
phonies đặt ra. Cả một thế hệ yêu cuồng sống vội, váy ngắn tóc dài không phải
là một thế hệ thiếu lý tưởng hay thấy đời sống vô nghĩa, đó chỉ là một thái độ
phản kháng quyết liệt lại những phonies mà họ kinh tỡm. Chính ra thế hệ hippies
là những người vô cùng nhạy cảm, nhất là đối với những khổ đau của người khác.
Họ bắt đầu thấy thấp thoáng anh sáng Châu Á và kỳ lạ thay, họ sống như những
Phật Tử, bởi không ai có thể tự gọi mình là Phật Từ nếu không nhạy cảm với
những khổ đau của người khác.
Có tới ba lần trong The Catcher, Holden tỏ ý ‘lo lắng’ cho mấy con vịt trong hồ
ở công viên Central New York. Lần thứ nhất trong khi ông giáo dạy Sử, già lụ
khụ giảng luân lý, Holden lơ đãng và trong lòng băn khoăn không biết khi mặt hồ
bị đóng băng, mấy con vịt đi về đâu. Không biết có ai đem xe chở mấy con vịt về
một chỗ trú ẩn nào khác hay chúng phải tự bay đi như các loài di điểu khác! Hai
lần sau Holden nhắc mấy con vịt với hai người tài xế tắc xi. Người tài xế thứ
nhất nghi ngờ cậu bé tâm thần bất thường, xẳng giọng: “Cậu nói nhăng nói cuội
gì vậy? Bộ giỡn hả?” Người tài xế thứ hai tử tế hơn, tuy nhiên lúng túng vì câu
hỏi ngớ ngẩn: “Ai? Đi đâu? Ai để ý làm gì mấy chuyện lẩm cẩm như vậy!” Tuy
nhiên người tài xế này sau đó bàn luận với Holden về một chuyện ngớ ngẩn khác:
mấy con cá trong hồ làm gì trong mấy tháng mùa Ðông. “Chúng không đi đâu cả,
chúng bị đông cứng và ở yên một chỗ cho đến hết mùa Ðông!” Câu đối thoại của
hai người điên? Trên đời này mấy người có thì giờ quan tâm tới số phận của mấy
con vịt và mấy con cá trong hồ vào mấy tháng mùa Ðông như Holden!
Lúc còn trẻ luôn hăm hở xông vào con đường công danh sự nghiệp, hay mơ tưởng
mấy người đẹp da trắng tóc dài, tôi cũng có kết luận tương tự khi đọc các bài
thơ Đường, như bài Xuân Hiểu của Mạnh Hạo Nhiên:
Dạ lai
phong vũ thanh
Hoa lạc
tri đa thiểu
Đêm qua
mưa gió tơi bời
Biết rằng
hoa cũng có rơi ít nhiều.
(Trần
Trọng Kim dịch)
Mấy ông thi sĩ đời Đường không có chuyện gì làm sao lại lo cho mấy chùm hoa
rụng đêm qua?
Ai cũng biết các đệ tử của Phật lúc đi khất thực phải cúi nhìn xuống đất để
tránh dẫm lên các côn trùng. Trong mùa mưa họ phải ở lại tịnh thất vừa để tu
tập, vừa tránh đi ra ngoài đường mấy tháng mưa, mùa côn trùng bò lên sống ngổn
ngang trên mặt đất. Nếu ai nghĩ Đức Phật lo lắng thái quá cho các loài côn
trùng sâu bọ, sẽ còn bị “sốc” hơn nữa khi Đức Phật dạy các đệ tử trước khi uống
một ly nước lạnh, phải niệm chú vãng sinh cho 64 ngàn vi sinh vật sống trong
đó. Holden và người tài xế tắc-xi chỉ lo lắng cho mấy con vịt và con cá xem ra
còn đở “lẩm cẩm” hơn Đức Phật! Chừng nào chưa hiểu đức “hiếu sinh’ của tư tưởng
Đông Phương, hay vẫn còn đem tâm để hình hài sai khiến, nhiều người vẫn còn xem
mấy chuyện này là mấy chuyện lẩm cẩm!
Holden dĩ nhiên không những nhạy cảm với mấy con vịt, anh cực kỳ nhạy cảm với
những người chung quanh, dù biết họ là những phonies. Anh lúc nào cũng rộng rãi
với bạn bè, sẵn sàng cho họ mượn những vật dụng riêng tư của mình, kể cả
Stradlater, người bạn cùng phòng mà anh đã đánh lộn. Sở dĩ anh đánh nhau với
tên này chỉ vì anh nghi ngờ y dở trò chim chuột sở khanh với một cô láng giềng
cũ. Và cô này chỉ là một cô láng giềng, chớ không phải bồ bịch gì của anh.
Khi gặp hai bà sơ ở gần nhà ga, anh đề nghị tặng hai bà sơ 10 đồng (hơn nửa số
tiền mà anh có trong túi) mặc dù hai bà sơ chỉ đi nhận nhiệm sở dạy học, chớ không
có đi quyên tiền. Sau đó Holden cứ ân hận mãi về chuyện anh hổn láo phà khói
thuốc vào mặt hai bà sơ.
Đêm Chủ Nhật, sau khi lẻn về thăm Phoebe, Holden gọi điện thoại cho một thầy cũ
để xin ngủ nhờ một đêm. Ông là người duy nhất trong cuốn truyện mà Holden thích
và kính trọng. Holden trước đó chứng kiến cảnh ông thầy săn sóc một học sinh bị
một nhóm học sinh du đảng khác uy hiếp, đến nổi phải nhảy xuống lầu. Chính ông
này đã tự cởi áo đắp lên người nạn nhân và mang em đến bịnh xá cấp cứu, trong khi
các người khác cố tình lảng tránh. Nửa đêm khi Holden giật mình tỉnh dậy, anh
cảm thấy bàn tay của ông thầy mà anh kính mến đang mân mê trán mình. Có thể ông
thấy là một thứ bi-sexual pervert thứ thiệt, nhưng Holden cứ băn khoăn sợ mình
có hiểu lầm thái độ của thầy không.
Trong The Catcher, anh đã châm biếm, chế diễu, chửi thề những phonies này. Thế
nhưng Holden không hề ghét bỏ mà chỉ thương hại họ. Đến cuối quyển sách, Holden
hối tiếc việc anh đã kể một câu chuyện dính líu tới nhiều người. Anh còn cảm
thấy “nhớ” tất cả mọi người mà anh nhắc tới trong chuyện, kể cả tên ma cô
Maurice.
Một nhà văn khác cũng nhắc đến sự thanh khiết của trẻ em là Saint-Exupéry trong
The Little Prince. Tuy nhiên Hoàng Tử Bé của Saint-Exupéry đến từ một tinh cầu
khác. Sự tương phản giữa hồn nhiên và “ người lớn” của Saint-Exupéry có tánh
cách triết lý hơn. Đó là sự khác nhau giữa những gì cao cả và tầm thường của
đời sống. “Người lớn” bị đời sống điều kiện hóa, không còn có cái nhìn trong
sáng như trẻ con, mà chỉ thấy toàn những con số. Khi trẻ con mô tả một căn nhà
gạch hồng, với giàn hoa phong lữ đỏ thẫm trên khung cửa sổ, có các con bồ câu
đang gật gù trên mái nhà, người lớn chỉ quan tâm xem căn nhà đó trị giá bao
nhiêu tiền. “Người lớn” là một người chưa bao giờ ngữi thấy mùi hoa bưởi hoa
cau, chưa hề “thấy” trăng sao, chưa bao giờ nhìn rõ khuôn mặt người thân.
“Người lớn” là những người mù vì không bao giờ chịu nhìn người khác và sự vật
bằng tâm hồn của mình. Saint-Exupéry cũng cho Hoàng Tử Bé về quê nhà ở một tinh
cầu xa bằng ẩn dụ con rắn trong vườn địa đàng, khi con người đánh mất hồn
nhiên.
Salinger, hay Holden, trái lại đang sống trong cõi ta bà, giữa thành phố New
York, một thành phố tự hào là không bao giờ biết ngủ. Nhưng Holden cũng cô đơn
không kém gì Saint-Exupéry trong sa mạc Sahara, nếu không muốn nói là còn cô
đơn hơn. Holden hầu như không kết thân được với ai, kẻ cả cha mẹ và ngưói anh
cả. Trong đời này nếu còn có người nào mà anh còn có thể thân cận được, đó là
cô em Phoebe và có lẽ một người nữa, Allie, đứa em trai đã mất. Hai người đó là
hy vọng cuối cùng của Holden ở cõi ta bà này.
Phoebe là người duy nhất dám thách đố Holden và Holden phải chịu khó trả lời.
Khi bị Phoebe căn vặn yêu cầu Holden cho cô biết tên một người hay một việc nào
anh thích, Holden không nghĩ ra được một người nào. Cuối cùng anh phải chống
chế, nhắc đến Allie, và Phoebe. Khi có ý định muốn bỏ đi một nơi thật xa,
Phoebe là người duy nhất mà Holden muốn đến từ giã trước khi lên đường đi tìm
giấc mộng. Và Phoebe cũng là người duy nhất làm anh khóc sướt mướt khi cô bé
đưa cho anh “mượn’ tất cả tiền mà cô được cha mẹ cho trong dịp lễ giáng sinh.
Có lẽ cô bé đếm tiền từng xu, từng ngày. Cô nói: “Đây, tám đồng tám mươi lăm
xu”. Nhưng Phoebe đính chánh ngay: “Tám đồng sáu mưới lăm xu! Em có tiêu một ít
rồi!”
Thình lình tôi bật khóc làm nhỏ Phoebe sợ quá. Nhỏ Phoebe choàng tay và dỗ dành
cho tôi nín, nhưng một khi bắt đầu khóc, không ai có thể ngừng được. Phoebe
choàng tay ôm tôi và tôi cũng choàng tay ôm cô bé và một lúc lâu sau tôi mới
nín khóc được.
Người thứ hai Holden có thể “nói chuyện” được là Allie, đứa em đã qua đời. Sau
khi ngủ một đêm ở nhà ga, Holden đi dọc theo đại lộ Thứ Năm, để đến bảo tàng
viện chờ em. Holden có thể đã bị trãi qua quá nhiều biến cố trong hai ngày,
tinh thần của anh như một dây đàn căng thẳng quá độ. Khi băng qua đường anh có
một ảo giác là anh sẽ không bao gìờ đến được lề bên kia. Anh có cảm tưởng anh
càng ngày càng lún dần, lún dần và cuối cùng biến mất không còn ai thấy anh
nữa. Gate, gate, para samgate. Và anh đã làm một chuyện mà từ trước tới giờ anh
chưa hề làm. Khi gần tới bờ bên kia, anh “khẩn cầu” Allie: “Allie đừng để anh
biến mất. Allie đừng để anh biến mất”. Và khi đến bờ bên kia, Holden nói: “Cám
ơn em, Allie”. Bodhi-sattva. Khi qua được bờ bên kia, Holden ngồi xuống một
băng đá và quyết định sẽ không về nhà nữa, sẽ bỏ đi một nơi thật xa, một nơi
không có ai biết anh. Anh sẽ giả làm một người vừa câm vừa điếc và như thế anh
sẽ không cần phải nói chuyện với bất cứ một người nào khác. Anh sẽ dành dụm
tiền để xây một căn nhà gỗ ven rừng, và nếu có muốn lập gia đình, anh sẽ lấy
một người đàn bà đẹp, cũng vừa câm vừa điếc khác. Và trong lúc đó chỉ có một người
duy nhất trên đời mà anh muốn đến từ biệt là Phoebe.
Đoạn cuối tả cô bé Phoebe xách va-li cũ cồng kềnh để đi theo anh về miền rừng
núi Colorado là một đoạn văn tuyệt đẹp, theo tôi, còn xúc động hơn đoạn văn tả
cảnh biệt ly giữa Saint-Exupéry và Hoàng Tử Bé. Phoebe giận anh vì lần đầu tiên
bị Holden mắng “câm miệng lại”. Phoebe đi bên kia đường trong khi Holden đi bên
này đường, hướng về phía sở thú. Nhưng hai người luôn trông chừng nhau vì sợ
lạc. Khi đến chổ có trò chơi cỡi mấy con ngựa gỗ, Phoebe hết giận anh và
lên cưỡi ngựa. Trời bỗng đổ mưa như trút nước. Holden ngồi trên băng đá “Người
tôi ướt đầm đìa. Nhưng tôi bất cần. Thình lình tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Như trong lời hát của một bản nhạc phản chiến vào các năm 60 “It’s Happening Now”.
Giả sử như một người chợt ngộ, họ có cảm giác như thế nào? Tôi nhớ trận mưa
rừng Nhất Hạnh đã tả trong Nẻo Về Của Ý.
Phùng Khánh dịch tác phẩm Câu Chuyện Của Dòng Sông của Herman Hesse là điều dễ
hiểu. Nhưng Bắt Trẻ Đồng Xanh? Trong câu chuyện, Holden cũng như các thanh
thiếu niên mới lớn khác văng tục “không ngừng da non”, nghịch ngợm phá phách đủ
mọi cách, đánh nhau. Trong hai ngày ở New York, Holden giả “người lớn” vào quán
rượu, say sưa, kêu một cô gái giang hồ lên phòng vân vân… Tôi tưởng tượng nỗi
bối rối của Phùng Khánh khi phải tìm một chữ để dịch các tiếng chửi thề
“goddamn” “Phony bastards” “my ass”…Tôi không nghĩ Phùng Khánh chỉ muốn dịch
một tác phẩm ăn khách. Bắt Trẻ Đồng Xanh không phải chỉ phản ảnh sự khủng hoảng
của một thanh niên mới lớn như Holden nhưng còn phản ảnh tâm trạng bất an của
thanh thiếu niên Mỹ (và Âu Châu) lúc bấy giờ. Họ dần dần đánh mất niềm tin vào
những giá trị cố hữu. Giữa thập niên 50 nhờ các công trình của D.T. Suzuki,
nhất là bộ Thiền Luận và các hoạt động của American Zen Centre, Phật giáo đã
bắt đầu ảnh hưởng khá nhiều đến thành phần thanh niên, trí thức, khao khát đi
tìm ánh sáng Phương Đông. Tác phẩm On the Road của Jack Kerouac phản ảnh phong
trào thanh niên lên đường thời đó: một ba-lô trên vai, một ít tiền, đưa ngón
tay cái chỉ lên trời xin quá giang đi khắp nước Mỹ, đi qua biên cương nước Mỹ,
tới Ấn Độ, Tây Tạng, Sri Lanka, Nepal, Nhật và Đại Hàn để “tầm đạo và học đạo.”
(Nhà văn Lưu Nhơn Nghĩa có nhắc đến một nhà sư người Đức đến Việt Nam) Đó là
các thế hệ mà chúng ta quen gọi là Hippies, “Đông Du Ký”, sống hình như không
có ngày mai. Đó là những “tân tăng” phản đối những qui thức xã hội Tây Phương,
chống đối chú trọng quá nhiều tư hữu, kể cả tư hữu tình ái. Họ sống trong lục
hoà Make Love, Not War. Trong số những “tân tăng” này, có người thọ giới, rồi
cởi áo, lập gia đình, lập thiền viện, sáng tác, nghiên cứu và sau 20 năm, họ đã
trở thành những nhà văn lớn, nhà thơ nổi tiếng, xuất bản những công trình
nghiên cứu qui mô về đạo Phật. Họ thuộc về thế hệ thường được gọi là Beat
Generation. Họ đã trở thành những sa- môn hộ pháp đắc lực trong việc truyền bá
Đạo Phật trên đất Mỹ và Tây Phương. The Catcher in the Rye không những
phản ảnh cái tâm bất an của thanh niên mới lớn như Holden nhưng cũng phản ảnh
cho mối bất an chung của một thế hệ bắt đầu nghi ngờ và thẩm định lại một số
các giá trị Tây Phương, nhất là các tôn giáo tổ chức cổ truyền, như Ki-Tô và Do
Thái giáo. Không ai lấy làm lạ khi thấy thanh niên Mỹ mê Holden, mê Salinger,
mê Kerouac và mê … James Dean. Đó là thời mà Tổ Đạt-Ma xuất hiện trong các bồ
tát hoá thân, đã hỏi thanh niên Mỹ: “Các cậu đưa tâm ra đây để tao an cho.”
Salinger là một nhà văn có cuộc đời bí hiểm và khó hiểu nhất, so với những nhà
văn Mỹ khác. Sau The Catcher ông viết thêm một tuyển tập truyện ngắn và một
chuyện dài khác, Seymour, An Introduction và khi danh vọng đang lên như diều và
tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn chương Mỹ, ông đã không xuất bản thêm
một tác phẩm nào khác, hoàn toàn cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài. Có lẽ
ông theo gương Tổ Đạt-Ma, ngồi diện bích từ hơn 40 năm nay trong một trang trại
ở Cornish, Colorado.
Con gái của Salinger, bà Margaret, trong Dream Catcher, gần đây đã hé lộ một
vài quan niệm về sáng tác và đời sống cuả ông. Đối với ông, “viết văn là một
cuộc hành trình đi tìm giác ngộ” và ông muốn dành cả cuộc đời để thực hiện một
tác phẩm lớn, và tác phẩm này không gì khác hơn là chính
cuộc đời của ông. Như Rilke hay Holderlin, viết văn và làm thơ là một cách
sống, một cách ở đời, không phải là một trò nhai văn nhá chữ, kể lể nhảm nhí. Và
nói theo thuật ngữ của Phật Giáo, đó là một “pháp môn”. Margaret cũng tiết lộ
là Salinger có lần dự định “xuất gia” thành một tỳ- kheo, đã từng làm bạn với
D.T. Suzuki, từng ngồi thiền nhiều lần có lẽ dưới sự hướng dẫn của Suzuki tại
thiền thất Thousand Islands. Tuy nhiên, Margaret kể, Salinger bổng nhiên đổi
cách tu tập, theo một pháp môn Ấn giáo Vedanta, dưới sự hướng dẫn của tu sĩ
Bà-La-Môn, Swami Nikhilananda. Trong khi Phật giáo khuyến khích sa-môn nên dành
cả cuộc đời tu tập bằng cách “cát ái từ thân”, tuy nhiên không có thái độ quyết
liệt về tình dục như giáo lý Vedanta. Đạo Phật cũng kính trọng phụ nữ (Ma Đằng
Gia Nữ sau này cũng thành một đệ tử của Phật và là sư đệ của A Nan!), trong khi
phái Vedanta xem “vàng và phụ nữ” là những trở ngại lớn lao cho việc giác ngộ.
Có lẽ vì thế các nhân vật của Salinger ít “phóng túng” hơn các nghệ sĩ trong
Thiền Beat sau này.
Salinger từ nhỏ nghĩ mình gốc Do Thái, nhưng sau đó khám phá bên mẹ thuộc di
dân Ái Nhỉ Lan Thiên Chúa giáo. Sau thế chiến thứ hai, di dân Do Thái và Ái Nhỉ
Lan ở Mỹ vẫn còn bị kỳ thị nặng nề. Trong một vài khu thương mại ở Brooklyn New
York, trên cửa sổ của các cửa hiệu vẫn còn trưng bày những thông báo “cấm dân
Do Thái và Thiên Chúa” không được vào. Trong The Catcher, Holden nhiều lần lo
lắng bị người khám phá anh không phải là người Thiên Chúa giáo. Khi anh gặp hai
bà sơ, anh lo sợ hai bà sẽ hỏi về tôn giáo của anh. Ảnh hưởng của ánh sáng Ðông
Phương, nhất là Phật giáo, trong các năm đầu thập niên 50 (Bắt Trẻ Đồng Xanh
phát hành lần đầu năm 1951) mở cửa cho một thời kỳ mà nhiều học giả gọi là thời
chuyển pháp luân lần thứ Tư, phần lớn ở Tây Phương, nhờ những nhà văn hippies
này. Đây là thời kỳ Phật giáo không còn được xem như những công trình nghiên
cứu kinh viện của các học giả già lụ khụ. Phật giáo hiển hiện như một đoá hoa
nhiều mầu sắc rực rỡ, đầy thách thức và có sức hấp dẫn mời gọi. Các hộ pháp
thường không phải là các nhà sư nghiêm trang trong chiếc áo tràng, mà là các văn
nghệ sĩ On the Road. Các học giả Beat sau này đã trở thành những giáo thọ hay
học giả Phật giáo nổi tiếng, như Robert Aiken và Philip Kapleau. Nhưng nhóm văn
nghệ sĩ chịu ảnh hưởng của Thiền trong sáng tác đã định tính cho mối liên hệ
giữa văn nghệ và Phật giáo. Các văn nghệ sĩ Beat đã mở cửa cho một nhân sinh
quan mới, một lối sống ngông cuồng kiểu Hippies, nổi loạn và phá vỡ những khuôn
khổ ước lệ “đạo đức giả” cùng một lối sáng tác cực kỳ phóng túng. Ba người khai
sáng phong trào Beat sau này đã trở thành những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng cũng
như là những vị chuyển luân pháp vương thời đại của nước Mỹ. Jack Kerouac, sau
On The Road, biểu trưng “cho thế hệ thanh niên Mỹ vào thập niên 50 sống loạn
cuồng trong âm nhạc và tình dục, thách đố các khuôn mẫu cũ kỷ”. Thế hệ Hippies
chủ trương “Make Love, Not War” sau này cũng là thành phần chủ lực của phòng
trào sinh viên phản chiến Mỹ. Đây là những Dharma Bums, tạm dịch là những Phật
Tử hippies, cà nhõng, lờ quờ (chữ của sinh viên trong phong trào tranh đấu 63-66
hay dùng để đùa với nhau). Gary Snyder chủ trương vừa thực tập thiền quán vừa
làm tình tập thể, sau đó cặm cụi ngồi dịch thơ Hàn San, ông sư đã khắc các bài
thơ trên vách núi để vượn và khỉ đọc! Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự. Dạ bán
chung thanh đáo khách thuyền. Khi đến tuổi tri thiên mệnh, Snyder tổ chức một
thiền thất, vẫn tiếp tục dịch thơ Hàn San và được trao giải Pulitzer về thơ năm
1974. Thi sĩ Ellen Ginsberg được xem như một Walt Witman. So với các tác phẫm
của Beat, Bắt Trẻ Đồng Xanh còn quá hiền lành. Khi làm việc ở Vạn Hạnh, tôi
thấy có một quảng cáo Thiền Beat, Thiền Square trên tập san Tư Tưởng. Tuy nhiên
quảng cáo này biến mất ngay số sau đó và không bao giờ xuất hiện cả. Các tăng
già Việt Nam ở thập niên 60, tuy “cấp tiến” về mặt hành động, nhưng cũng giống
như các thiền sư dòng Thiền Square chính thống, tâm tư chưa đủ chín mùi
để chấp nhận các bồ tát hippies. Ngay cả một học giả “lão thành” của Thiền
Square, Alan Watts, chỉ trích các văn nghệ sĩ Beat là quá phóng túng. So với
các phẩm “mặn” như Dharma Bums, The Catcher “chay’ hơn nhiều. Holden Caulfield
tuy chửi thề luôn miệng, tuy lòng có bất an, nhưng lúc nào cũng thương cảm
người khác, luôn cố gắng bảo vệ chân tâm hồn nhiên trong trắng. Đến nay vẫn còn
nhiều thiền sư Square, chưa chấp nhận Holden, tảng lờ như không biết đến dịch
phẩm Bắt Trẻ Đồng Xanh trong sự nghiệp của Phùng Khánh. Dám bỏ công dịch tác
phẩm này, Phùng Khánh ngày xưa (1965?) cũng đã “gồng” mình lắm rồi.
Tình trạng tinh thần của thế hệ thanh niên Việt Nam vào thập niên 60, theo tôi,
cũng tương tự như tâm trạng các thanh niên Mỹ mười năm trước đó. Sau khi chính
phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, phong trào đọc Thiền, nghiên cứu triết lý Thiền,
thực tập Thiền, làm thơ Thiền được phát động rầm rộ. Phật Tử, nhất là những
người thuộc phong trào sinh viên, văn nghệ sĩ và trí thức, rủ bỏ được một gánh
nặng ngàn cân của các hình ảnh ảnh tiêu cực về Phật giáo, những nghi lễ nặng
nề, những cách tu tập mê tín. Thoát nhiên những tác phẩm với cái nhìn “đợt sóng
mới” hợp với tâm thức những người trẻ, khiến đạo Phật xuất hiện như cành hoa
thược dược “mỉm nụ nhiệm mầu”. Nụ nhiệm mầu đã hiện diện từ khi Ca Diếp “niêm
hoa vi tiếu” nhưng chưa đủ khế thời để nở rộ trong đám thanh niên tân học. Các
văn nghệ sĩ Phật Tử tụ họp trên các tờ Hải Triều Âm, Giữ Thơm Quê Mẹ, các nhà
nghiên cứu trẻ trên tờ Tư Tưởng Vạn Hạnh, đó là chưa kể đến những nhà thơ đánh
võ “vô chiêu” như Bùi Giáng, nói pháp mà không hề dùng pháp ngữ và pháp thoại
của đạo Phật. Hay những bài thơ “hữu chiêu” của Phạm Thiên Thư nồng nàn không
thua gì các bài thơ của Tô Man Sự. Trụ Vũ đã nhận xét “Hòn sỏi nào cũng thuyết
Pháp Hoa Kinh”, hay như Phạm Duy “một cành củi to, một tờ lá uá, một hạt bụi
mờ” cũng là Pháp. Đó là Beat Generation của Việt Nam, tuy không có loạn cuồng
như các người đồng thời ở Tây Phương.
Chị Phùng Khánh ơi, tôi không muốn kêu chị là Sư Bà, là Ni Trưởng, chỉ muốn kêu
chị bằng chị Phùng Khánh. Tôi nhỏ hơn chị vài tuồi và là bạn của Phùng Thăng.
Tôi rất vừa ý với lời phân ưu trên Chuyển Luân do anh Hoàng Nguyên Nhuận thảo
ra. Anh Nhuận bày tỏ sự thương tiếc một người chị của thế hệ 63. Những danh
xưng Sư Bà, Ni Trưởng, Hòa Thượng, Pháp Sư hay Thượng Thủ nặng nề quá, chị mang
theo làm chi cho mệt. Hơn nữa một Bồ Tát hoá thân như chị không nên lẫn lộn với
một số Hoà Thượng, Hội Chủ, Thượng Thủ hay Pháp Sư phonies làm gì. Để chỉ thảnh
thơi, nhẹ nhàng bắt trẻ đồng xanh với cái tâm không phân biệt. Trong đời hành
đạo, tôi nghĩ chị cũng có lúc gặp nhiều phony bastards như Holden đã gặp. Nhưng
ai chị cũng bắt, cũng cứu. Bồ Tát mà còn phân biệt thì đâu còn Bồ Tát nữa. Đối
với chị ai cũng là trẻ đồng xanh, cần bắt khi họ rơi khỏi vách đá. Chúng sanh
vô biên thề nguyện độ.
Tôi nghĩ đó là công việc duy nhất mà chị cũng như Holden muốn làm, ở bên này
bờ, cũng như ở bên kia bờ. Happy Catching, chị Phùng Khánh.
Quán Như
Sách đọc
trước khi viết:
-R.
Fields. How the Swans Came to the Lake. Shambala, Colorado, 1981.
-I.
Hamilton. In Seach of J.D. Salinger. Heinemann London, 1988.
-C. Ingram.
In The Footsteps of Gandhi. Parallax Press, California, 1990.
-J.
Kerouac. On the Road. Penguin Books, ấn bản 1991.
-J.
Kerouac. The Dharma Bums. Flamingo, 1994.
-A.
Saint-Exupéry. The Little Prince. Penguin Books, 1998.
-J.D, Salinger.
The Catcher in the Rye, Penguin Books, ấn bản 1994.
-M. A.
Salinger. Dream Catcher. Washington Square Press, New York, 2000.
-Tricycle,
The Buddhist Review, Fall 1995. Fourth Anniversary edition.