Đường Sài Gòn mùa thu
Photo by PCH, Virginia 27.10.2015
1-Mênh mông và cô độc!
Đó là cảm giác đầu tiên ngay khi vừa đặt chân
lên đất Mỹ.Vẫn là những căn nhà xinh xắn, khang trang, sân trước vườn sau,
nhưng khoảng cách từ nhà này đến nhà kia trông giống như những dòng kênh mà
vắng bóng chiếc cầu, chia cắt.
Trước nhiều căn nhà ở Mỹ thường có một lá cờ tung bay,
không biết đó là dấu hiệu của tự hào, phô trương hay đơn giản chỉ là ý nghĩ
thuộc về một cộng đồng nào đó để thấy mình bớt lẻ loi?
Quy hoạch đô thị ở Mỹ khá giống Úc, khu nhà ở, khu
thương mại riêng biệt và cách xa nhau… nhưng cách tổ chức xã hội năng động hơn,
hiện đại hơn và dĩ nhiên là cũng xô bồ, náo động hơn.
Người Việt ở Mỹ
sống ở những căn nhà rộng, tiện nghi, đời sống sung túc nhưng nếp sống và sinh
hoạt của họ chẳng khác lúc còn ở VN là bao. Khác với người Việt ở Âu Châu,
thường xem mình là dân ngoại quốc sống trên đất người, người Việt ở Mỹ sau vài
mươi năm sinh sống đã tự cho mình là dân Mỹ. Nghĩ, Tin như vậy ..nhưng trên
thực tế, bị bứng gốc, thế hệ thứ nhất đâu dễ gì hội nhập nơi quê người. Tôi tin
là rất khó thể xóa mất nền văn hóa đã ăn sâu vào máu thịt.
Nhà ở và phố thị cách xa nhau, không phương tiện công
cộng- hay hạn chế- nên hai giới là người
già và trẻ em coi như bị bỏ rơi. Ở Mỹ vì chỉ có thể đi lại bằng xe hơi và mục
đích của quy hoạch này là tăng tiêu thụ xăng, món hàng ruột của các tập đoàn
tài phiệt. Vì lý do đó mà xe lửa gần như vắng bóng trên đất Mỹ.
Sự cô đơn và lạc lõng ở Mỹ dễ khiến những người già bị
trầm cảm. Họ cô đơn, sống qua ngày trong những căn nhà đóng kín. Con cháu đi
làm từ sớm, chiều tối mới về, họ nằm nhà xem phim Hàn hay nghe nhạc, thi thoảng
mới có thể tổ chức gặp nhau để tha hồ kể chuyện ngày xưa.
Tiếng anh kém, khó hòa nhập.
Đường phố rộng mà những ai không biết lái xe là xem
như bị bỏ tù giữa bốn bức tường, cho đến khi con cháu rảnh rỗi đưa đón.
Khoảng cách ở Mỹ không tính bằng km mà bằng đơn vị thời gian. 30 phút. 60 phút. Đó là
thời gian đi xe, nếu không bị tắt đường. Khoảng cách rộng, mỗi lần rời khỏi nhà mất rất nhiều thời
gian..
Bạn bè hẹn cà phê mất cả buổi. Những người già từng
nhóm chụm đầu nói chuyện, nhiều nhóm khác nhau. Vắng bóng những người trẻ. Sinh
ra ở đây, họ thực dụng, tính toán, thiếu tình cảm gia đình và phần lớn không
rành tiếng việt nên ít quan tâm đến cộng đồng của cha mẹ, ông bà mình.
Khi mới qua, ai
cũng cố làm việc để mua nhà lớn, nhiều phòng. Lớn lên, các con đi làm xa và cha
mẹ sống đơn độc trong căn nhà rộng.Các phòng trống, họ giữ lại nhiều kỷ vật của
các con, những bức vẽ nguệch ngoạc ngày còn bé. Còn khi ba mẹ mất đi, các con
thường vất bỏ các đồ vật vô ích mà ba mẹ đã mua và lưu giữ.
Trên đây chỉ là vài nét chấm phá về cảm giác ngay khi
vừa mới tới Mỹ. Có thể còn thiếu sót hay chủ quan…và tôi muốn để dành một bài
viết khác về giấc mơ Mỹ và về miền đất hứa này.
Ở nhà chị Thi
Nga, em gái Nguyên Minh ở Santa Clara chứng mươi ngày rồi chúng tôi đón xe đò đi Santa An, phía nam
California. Nơi đây có nhiều cuộc găp gỡ
với các văn nghệ sĩ mới quen hay từng quen biết : Du Tử Lê, Trần Văn Nam, anh
chị Dạ Từ, Thu Vân cũng như Đặng Phú Phong, Thành Tôn, Trần Yên Hòa, Nguyễn
Lương Vỵ, Trần văn Sơn, Nguyễn Đình Thuần, Trịnh Cung, Nguyễn Thị Ngọc Lan,
Nguyễn thị Khánh Minh, Đặng Kim Côn, Lữ
Quỳnh, Tôn Nữ Thu Dung, Thân Tạ, Hứa Trinh, Hải,Trung HB... tất cả đều vui mừng
gặp nhau trên đất khách.
2-Mùa thu ở Virginia
Từ giã
thung lũng Silicon khô cằn và nắng hạn mấy anh em trong nhóm Quán Văn gồm chủ
bút Nguyên Minh, nhà thơ Đoàn văn Khánh và vợ chồng tôi cũng lên đường bay về
miền Đông nước Mỹ. Những người tuổi “chớm thu” bay về tiểu bang Virginia vào
đầu mùa thu.Những rừng thu lá hãy còn xanh,
Khoảng cách mênh mông của đất nước rộng lớn này hình
như đã bị tình yêu chữ nghĩa làm cho ngắn lại.
Đích đến ban đầu là viếng thăm họa sĩ Đinh Cường, nhà thơ Phạm Cao Hoàng và nhà thơ Nguyễn Minh
Nữu.
Phòng
tranh họa sĩ Đinh Cường là một thế giới riêng biệt. Khép lại mọi xáo trộn của
thế giới bên ngoài để sáng tác. Tất nhiên là có rất nhiều tranh.Tạp chí. Văn.
Bách Khoa. Hợp Lưu. Nhiều kỷ vật của bạn bè. TCS. Bùi Giáng. Bửu Chỉ. Kiệt
Tấn. Khi đi, chúng tôi mang hơn 60kg
sách qua cho họa sĩ Đinh Cường. Nhìn thấy đống sách, anh vô cùng xúc động.
Elena - Đinh Cường - Nguyên Minh - Trương Văn Dân
Studio Đinh Cường, Virginia, 21.10.2015
Trên chuyến bay, phần lớn sách là các số
Quán Văn được bỏ trong 3 vali..xách tay. Ngăn chứa hành lý trên máy bay American Airlines nội địa nhỏ
nên vất vả lắm tôi và Elena mới bỏ 3 chiếc xách vào được. Chỉ có điều là khi
đến sân bay Washington Dulles, không thể nào kéo ra. Thấy tôi loay hoay nên một
anh bạn Mỹ cao lớn đến phụ. Cả hai cũng vật vã lắm mới kéo, lắc rồi lấy được.
Đỡ xuống, năng trịch.Anh bạn Mỹ hỏi các bạn mang gì mà nặng thế? Tôi đáp sách.
Nhìn nét mặt ngẩn ngơ của bạn, Elena nói thêm “Văn hóa nặng lắm bạn ơi!”
Buổi sáng gặp nhau, họa sĩ Đinh Cường
khen chiếc foulard màu vàng cam quấn quanh cổ áo Elena rất phù hợp với màu tóc.
Bất ngờ là ngay tối hôm đó, anh phác họa chân dung Elena rồi copy và post lên
blog Pham Cao Hoàng cùng với một bài thơ mừng gặp lại những người bạn từ xa đến
thăm (*).
-
Elena
phác thảo viết sharpie màu
dinhcuong October 21, 2015
phác thảo viết sharpie màu
dinhcuong October 21, 2015
Thời gian gần đây, có lẽ do chứng mất ngủ
của tuổi già, khoảng 2, 3 giờ sáng anh thức giấc và ngồi dậy làm việc.Vẽ. Làm
Thơ. Suy Nghĩ. Thương nhớ bạn bè, kẻ ở
xa, người đã mất.
Những bài thơ của anh giống như một nhật
ký, ghi chép những cảm nhận trong ngày. Nó có thể là thơ, hay những câu văn
ngắn, ý tưởng lạ, sâu sắc nên có nhiều người thích.
Khác với những nhà văn, nhà thơ lớn tuổi
khác thường viết về quá khứ, về hoài niệm anh Đinh Cường, có lẽ do ảnh hưởng
thiền môn Phật Giáo, thích nói về hiện tại, sống hết mình với giây phút quan trọng nhất của
đời sống, với một sự nhạy cảm, nhân hậu và một
tâm hồn nghệ sĩ.
Trong một thời gian chỉ mươi ngày nhưng anh
Nguyễn Minh Nữu đã tranh thủ đưa chúng tôi đi thăm rất nhiều nơi: những 7 tiểu
bang ờ miền Đông. Một ngày chủ nhật, vợ chồng Nguyễn Minh Nữu - Kim Mai.. thay
phiên nhau lái xe đưa chúng tôi đi thăm New York. Đi từ sáng sớm đến nửa đêm.
Mệt. Thân tình. Vui. Trên đường đi chúng
tôi có ghé lại New Jersey để thăm nhà văn Trần Hoài Thư và ghé lại bệnh viện
thăm chị Yến, vợ anh, bị bệnh.
Và
sự kiện quan trọng nhất trong thời gian này là buổi gặp mặt thân tình ở phòng
tranh họa sĩ nhà văn Trương Vũ. Anh em văn nghệ từ các tiểu bang xa kéo đến.
Phòng tranh rộng như một bảo tàng nghệ thuật. trên vách rất nhiều tranh, chân
dung.. tạo nên một không gian thật ấm áp và rất…văn nghệ. Chính vì buổi họp mặt
đông đủ này nên Quán Văn số 34 mới có chủ đề bên dòng Potomac.
Studio Trương Vũ - Virginia, 24.10.2015
Sau lần gặp đông đảo anh em văn nghệ này nhà thơ
Nguyễn Minh Nữu đã ghi lại trong một bài thơ “Tan mùa Lễ Hội” đầy cảm xúc (**).
…Nhớ hoài buổi
tụ hội lớn nhất ở nhà Trương Vũ
Hôm đó giữa căn phòng lớn là nơi
sáng tác tranh của Trương Vũ
Những tác phẩm hội họa tạo ra cảm
giác được bước vào cái không gian kỳ lạ
cái không gian của sắc màu trang
trọng và rất mực gần gũi thân tình
Đến từ Việt Nam thì có Nguyên Minh,
Đoàn văn Khánh,
Trương văn Dân, Elena Trương và Thân
Trọng Minh
từ Massachusetts có anh chị Trần Doãn Nho
đến từ California có anh chị Lữ Quỳnh
đến từ Maryland có Phùng Nguyễn
ngay tại Virginia thì anh chị Trương
Vũ, Đinh Cường
Đinh từ Bich Thúy, Phạm Cao Hoàng -
Cúc Hoa
Phạm Nhuận, Nguyễn Quang, Nguyễn Thị
Thanh Bình, Bạch Mai
Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Đinh
Vinh, vợ chồng Nguyễn Minh Nữu
và cháu Thiên Kim, con gái lớn của
Pham Cao Hoàng một thiên tài về ẩm thực…
Ôi cái tình văn chương của những người quen hay chưa
quen mà mến nhau qua trang viết, đã bỏ bao thời gian, trải bao dặm đường để đến
tìm nhau. Trong xúc cảm đó tôi nhớ một
câu nói của chị Ngô thị Mỹ Lệ, một độc giả thân thiết phát biểu trong buổi ra mắt Quán Văn: “Em phải
công nhận một điều là mình càng già càng "nông nỗi".Cứ thấy chỗ nào
có mặt các anh chị mình là em thấy chỗ đó đẹp ghê luôn”. Một câu nói chân tình
đến nỗi để lại một dư âm trong lòng những ai cầm bút. Chị Hạnh vợ anh Đặng Châu
Long sau đó còn “phán” thêm một câu, xanh rờn : “Mấy ông ai chẳng vậy, gặp nhau là như mèo thấy…mỡ”
Mà
văn chương và nghệ thuật không phải là lời THÚ TỘI rằng thế giới này bất toàn,
nhỏ bé và cuộc đời này còn thiếu quá nhiều thứ để tâm hồn có thể bay bổng hay
sao?
Được gặp và quen biết các anh Trương Vũ, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn
Đình Vinh.. tôi rất muốn có dịp nói chuyện và học hỏi nhiều điều từ họ… rất tiếc là không
có nhiều thời gian.
3-Bên
dòng Potomac:
Sau chuyến đi, chủ bút Nguyên Minh bảo: Quán
Văn số tới (034) mình nên chọn chủ đề bên dòng Potomac. Khi biết chủ đề này,
anh Nguyễn Minh Nữu đã đưa Nguyên Minh
và vợ chồng tôi chạy cả buổi chiều, đến tận thượng nguồn, nơi giáp giới ba tiểu
bang để chụp mấy tấm hình in sách.
Con sông này dài khoảng 665 km, có khúc tạo
thành ranh giới giữa West Virginia, Maryland và cũng chia Virginia ra khỏi
Maryland và Đặc khu Columbia . Các tàu lớn có thể đi trong sông Potomac đến
Washington D.C. và các địa điểm lịch sử
khác nằm hai bên bờ.
Viết về
dòng Potomac, không thể không nhắc đến một nhân vật nổi tiếng thời còn chiến
tranh Việt Nam. Một con người đáng để lịch sử và chúng ta ghi nhớ...
Anh tên là Norman Morrison, một người đàn ông
Mỹ đã tự thiêu trước Lầu Năm Góc ( Bộ Quốc Phòng Mỹ) để phản đối chiến tranh
Việt Nam vào ngày 2-11-1965.
Sự kiện này,
nhân chuyến đi hội thảo về Alan Edgar Poe ở Mỹ (2009) đã được một bạn văn của QV, Ts Hòang Kim Oanh cảm xúc
trong bài thơ (***):
Một người Mỹ đem cái chết bất tử của
mình
Tặng người dân Việt Nam chúng tôi
niềm hy vọng về những ngày thôi tan tác, bom đạn bão bùng
Tặng đồng bào tôi sự sống giữa mịt
mùng cái chết
Chân lý ngập ngụa mùi bùn lợi danh
bất chấp
Lương tri im ngủ nắng rám mùi dâu
trên cây vương trượng…
Elena và Trương Văn Dân
bên bức tượng Martin Luther King Jr.
Trong
chuyến đi này, tôi và Elena có đên thăm bức tượng của mục sư Martin Luther King
Jr. Ông là một nhà đấu tranh công lý chính trị người Mỹ da đen nổi tiếng nhất.
Bài diễn văn của ông “Tôi có một giấc mơ” (I Have a Dream),
tuyên bố sự công bằng không chỉ riêng cho người Mỹ da đen mà cho cả nhân loại.
Ông nhận giải Nobel hòa bình(1964) nhưng sau bị ám sát tại Memphis (1968).
Chỉ xin nhắc lại ở đây vài câu nói nổi tiếng
của ông: “ Tôi đã chọn tình yêu. Hận thù
là một gánh nặng quá lớn.” Hay “ Đừng
quên rằng những gì Hitler đã làm ở Đức Quốc đều hợp pháp.”
Và
“Tự do không bao giờ được ban phát từ
những kẻ cai trị, nó phải được đòi hỏi bởi những người bị cai trị”; “ Sẽ có một ngày nào đó một cá nhân phải đứng
về một phía, không nhất thiết là an toàn, cũng không phải là chính trị, hoặc
phổ biến, mà anh ta phải đứng về phía đó vì lương tâm anh ta cho rằng đó là
điều đúng.”
Sau khi thăm khu tưởng niệm Luther King, chúng tôi cũng có ghé đến thăm tượng
đài cựu chiến binh Việt Nam và
nghĩa trang Arlington nổi tiếng.
Tượng đài này được khánh thành vào
năm 1982 là một bức tường đá cẩm thạch đen cắm sâu vào lòng đất, tạo thành một
chữ V (có lẽ ngụ ý từ chữ Vietnam.Một cánh của chữ V chỉ về phía tượng đài
Washington, cánh kia hướng về tượng đài Lincohn. Tổng chiều dài bức tường đá
này là 76 mét.
Bức
tường này đã trở thành một trong những nơi được thăm viếng nhiều nhất ở thủ đô
Washington, như một minh chứng về nỗi đau và sai lầm của nước Mỹ. Hầu như bất
kỳ lúc nào ta cũng thấy nhiều người đứng cạnh bức tường đá khổng lồ này. Họ
trầm tư nhìn lên bức tường, tìm dòng chữ ghi tên người thân hoặc bạn bè mình đã
tử trận trong cuộc chiến.
Nghĩa
trang Arlington
Nghĩa trang Quốc gia Arlington nằm
trên khu đồi có nhiều cây xanh và cỏ bao phủ rất rộng lớn, nằm gần bờ dòng sông
Potomac phân chia Washington và tiểu bang Virginia và chỉ cách trung tâm thủ đô
chừng hơn mười lăm phút xe hơi.
Chúng tôi tới nghĩa trang vào giữa
mùa thu, hầu hết lá trên cành đang khoe sắc, từ màu vàng đến đỏ, tím. Nhìn
quanh đâu cũng thấy bạt ngàn những bia đá cẩm thạch màu trắng giản dị, cắm
thành hàng rất đều trên mặt đất bằng phẳng. Tất cả các ngôi mộ đều giống nhau
về kích thước, kiểu dáng và cách trang trí. Arlington còn là nơi chôn cất các
nhân vật nổi tiếng của nước Mỹ, như các nhà chính trị, các bộ trưởng, các thành
viên tòa án tối cao liên bang, các vận động viên thể thao xuất sắc và một số
minh tinh màn bạc.
Khác với nghĩa
trang Père-Lachaise (Cimetière du
Père-Lachaise) nổi tiếng nhất thế giới và lớn nhất ở của thành phố Paris có
rất nhiều các ngôi mộ quý tộc và danh nhân. Nếu khi sống người ta ăn mặc nhiều
kiểu cọ thì lúc chết cũng có những ngôi mộ không giống nhau. Đủ hình. Đủ kiểu.
Những pho tượng tiếc thương. Cầu nguyện. Người quỳ gối, kẻ ngửa mặt nhìn trời.
Mộ đơn độc. Mộ gia đình. Những nhà nguyện. Pere-Lachaise là một bảo tàng về
nghệ thuật và một trong những địa điểm
thu hút khá nhiều khách du lịch tại
Paris. Hằng năm hàng trăm ngàn lượt người đã đến đây để thăm viếng những ngôi
mộ có từ 200 năm qua và mộ các danh nhân.
Arlington thì cũng nổi tiếng nhưng vì
một lý do trái ngược. Ở đây, khi chết mọi người đều bình đẳng trước Chúa,
phương châm đó bắt nguồn từ Kinh Thánh. Nơi đây, mộ của đại tướng John Pershing
lừng danh thời đệ nhất thế chiến hoặc của nguyên soái George Marshall thời thế
chiến lần thứ hai cũng y hệt như mộ của hàng vạn binh nhất, binh nhì dưới quyền
chỉ huy của họ. Vẫn chừng ấy diện tích đất, cùng một dãy với nhau, và vẫn chiếc
bia mộ đá màu trắng giản dị. Khác chăng chỉ dòng chữ khắc trên bia. Nơi đây yên
nghỉ trong danh dự và vinh quang người lính Mỹ và chỉ một mình Chúa biết là ai.
Kể
lại vài sự kiện nhỏ trong chuyến thăm viếng nhưng trong bài này người viết muốn
tìm hiểu do đâu mà (trước đây) nước Mỹ được xem là thiên đường và hiện nay đó
là một thiên đường có súng và két sắt giữ tiền.
Câu
trả lời có thể nằm trong những con người vĩ đại và lý tưởng lớn giành lấy tự do
và dân chủ từ thời lập quốc. Phần lớn đều có tầm nhìn xa và tấm lòng nhân ái.
Chính họ mới là những người đã làm nên một Nước Mỹ Vĩ đại… …
Sự kiện gần đây nhất là McCain,
phi công ném bom miền Bắc, bị dân Hà nội bắn rớt, ngồi tù hỏa lò 6 năm; 1973
được thả về, phấn đấu trở thành nghị sĩ Mỹ và tranh cử tổng thống với
Obama. Ông là người có tầm nhìn rộng,
biết biến hận thù thành tình bạn, và đã không mệt mỏi giúp
hàn gắn mối quan hệ Việt-Mỹ.
Nhưng hai nhân vật gắn liền với chiến
tranh trong thế kỷ 19 và 20 mới là những con người kiệt xuất.
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng
Từ Vị tướng thắng vinh quang…
Douglas MacArthur là vị tướng tài ba của nước Mỹ vào thời Thế chiến
Thứ hai. Nhưng thành công sáng chói nhất của ông là chỉ trong vài năm mà đã tạo
ra nền tảng tự do và dân chủ cho một nước Nhật bại trận hồi sinh từ những hoang
tàn đổ nát. Ngày ông rời Nhật Bản, hàng trăm ngàn người xếp hàng dài hàng chục
cây số để tiễn đưa. Họ kêu to "Sayonara, Sayonara," hay giơ cao biểu
ngữ ghi "Chúng tôi thương mến và cảm ơn ông."
Sau hai quả bom nguyên tử thả xuống hai
thành phố Hiroshima và Nagasaki, Nhật hoàng Hirohito kêu gọi nhân dân Nhật hãy can đảm chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.
Khi ông đến Tokyo để tiếp quản, bộ tham mưu
thúc ông triệu Nhật Hoàng đến tổng hành dinh để biểu lộ quyền uy nhưng ông bỏ
qua những lời đề nghị của họ. "Làm
như thế là xúc phạm đến tình cảm của nhân dân Nhật và biến Nhật Hoàng thành người
tuẫn đạo”và ông bình tĩnh và kiên nhẫn chờ Nhật Hoàng sẽ tự đến gặp mình.
Quả nhiên chẳng bao lâu Nhật Hoàng yêu cầu
cuộc hội kiến. Ông dành cho Nhật hoàng tất cả những danh dự thích hợp với bậc
quân vương và tiếp đón chân tình. Khi ông châm thuốc lá cho Nhật hoàng, ông nhận
thấy hai tay ông này run nên tin rằng Nhật hoàng sẽ kể ra những lý do để khẩn cầu
đừng truy tố ông như một tội phạm chiến tranh.
Trước đấy nhiều đồng minh, đặc biệt Nga và
Anh, đã đòi đặt tên của Nhật Hoàng đứng đầu danh sách tội phạm ấy. Thế nhưng
MacArthur cực lực chống đối. Khi Washington sắp nghiêng về quan điểm của người
Anh, ông đề nghị là sẽ cần thêm ít nhất một triệu quân tiếp viện nữa. Lý do:
Dân Nhật vẫn còn sùng bái Hoàng Đế của họ.
Nếu Nhật Hoàng bị buộc tội và bị treo cổ như tội phạm chiến tranh, chính quyền
quân sự phải được thiết lập trên toàn cõi Nhật Bản, và chiến tranh du kích chắc
chắn lẽ sẽ bùng phát. Nhờ vậy tên của Nhật Hoàng bị gạch ra khỏi danh sách tội phạm chiến
tranh.
Nhưng Nhật hoàng chẳng hề biết gì về tất cả
điều này.
Nhưng những lo nghĩ của ông không có căn cứ.
Nhật Hoàng đã không van xin mà còn nói: "Thưa Tướng Quân MacArthur, là người
chịu trách nhiệm duy nhất cho mọi quyết định chính trị và quân sự và mọi hành động
của nhân dân tôi khi tiến hành chiến tranh, tôi đến đây gặp ông để chịu sự phán
xét của các cường quốc mà ông đại diện." Lòng MacArthur chợt dâng trào cảm
xúc phi thường. Sự can đảm gánh vác trách nhiệm này đồng nghĩa với cái chết,
khiến ông xúc động đến tận cõi lòng. Ông biết là trong khoảnh khắc lịch sử ấy
mình đang đối diện với một Đệ Nhất Quân Tử Nhật Bản.
Và
thế là MacArthur nhẹ nhàng nói “Tôi mời Ngài hôm nay đến đây để giúp tôi và
cùng hợp tác với tôi tái kiến thiết lại một nước Nhật đang hoang tàn.”
Cách hành xử này minh chứng rằng
MacArthur, ngoài bộ áo quân nhân, còn là một chính trị gia cực kỳ khôn ngoan và
có tầm nhìn.
Sau đó
MacArthur còn nghiêm cấm quân Mỹ không được phép ăn thực phẩm của Nhật vì dân
Nhật đang đói. Ngược lại, chương trình cứu trợ Nhật với thực phẩm Mỹ đã giúp
Nhật tránh được nạn đói mùa đông 1945 vì đất đai khắp nơi vẫn còn bị tàn phá.
Sau 3 năm, tất cả quân Mỹ đều rút về căn cứ ở Okinawa. Ngoài việc dùng quyền
lực Mỹ như một lá chắn bảo vệ nước Nhật khỏi những đe doạ nguyên tử từ Liên Xô,
Trung Quốc và Bắc Hàn, McArthur còn “lobby” quốc hội Mỹ viện trợ tái thiết Nhật
liên tục qua nhiều chương trình kinh tế và xã hội. Sau 40 năm, nước Nhật phát
triển ngoạn mục và vào thập niên 80’ được coi như con rồng Châu Á.
Nước Mỹ rộng mênh mông. Từ thảo nguyên rộng lớn đến những
vùng sa mạc hoang vu. Có lẽ đó là lý do mà Người Mỹ có
tầm nhìn xa, cởi mở và rộng lượng khi họ thắng trận chăng? Đọc lịch sử Mỹ,
chúng ta thấy từ Washington, Lincoln đến MacArthur, Eisenhower, các lãnh tụ
luôn luôn muốn làm “quân tử” và giúp kẻ bại trận phục hồi. Không hề có chuyện
trả thù, nợ máu hoặc bị tru di tam tộc!
Những chính
khách Mỹ đã nghĩ nghĩ sâu xa với tầm nhìn rộng lớn như miền
đất sinh ra họ? và Grand Cayon với những
dãy núi đa sắc mầu hùng vĩ đã giúp con người nơi đây có tầm nhìn vượt qua thời
gian và không gian.
… Đến vị tướng bại cũng anh hùng
Ở nghĩa trang Arlington, ngay cả mộ của vợ
chồng tổng thống Kennedy cũng thế, có điều chúng được bố trí ở một chỗ riêng,
trên đỉnh đồi, dưới chân Nhà tưởng niệm danh tướng Robert Lee.
Nói đến tướng Robert Lee không thể
không nhắc qua về cuộc nội chiến Nam Bắc, bắt
đầu năm 1861. Khi Abraham Lincoln đắc cử tổng thống và muốn
xóa bỏ thể chế nô lệ. Trước ngày ông nhậm chức, bảy tiểu bang miền Nam, sống về
canh nông, phản đối và tuyên bố ly khai chính phủ liên bang, thành lập chính phủ
riêng do Jefferson Davis làm tổng thống. Chính quyền Abraham Lincoln không công
nhận. Khi quân miền Nam tấn công đồn Sumter, nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ và thêm 4
tiểu bang khác gia nhập phe miền Nam.
Cuộc
phân tranh kéo dài 4 năm, tổn thất gần 1 triệu nhân mạng và chấm dứt khi quân
miền Nam đầu hàng năm 1865. Trận chiến lớn nhất xẩy ra ở Gettysburg, sau ba
ngày chiến đấu, quân hai bên đã thiệt mạng lên tới gần 50.000 chiến binh.
Chỉ
huy quân Miền Nam là Tướng Robert Lee ra đầu
hàng tại Richmond, thủ phủ tiểu bang Virginia, và được quân sử Hoa Kỳ ca ngợi như một nhân vật Anh Hùng. Ngày nay,
ở bất cứ thành phố nào của Hoa Kỳ, cũng có ít nhất một con đường chính mang tên
vị tướng này.
Ông
Robert Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội liên bang Hoa Kỳ nhưng gốc người
miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point. Khi chiến tranh Nam
Bắc xảy ra, Tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân miền Bắc nhưng ông xin từ nhiệm
để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể
quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.
Trong
chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền
Nam nhưng sau khi thủ đô Richmond của miền Nam bị thất thủ, ông đã quyết định
đầu hàng.
Cuộc
chiến tranh tương tàn đẫm máu làm tổn hại hàng triệu sinh linh Hoa Kỳ, tan nát
các đô thị miền Ðông và vùng Virginia. Tất
cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn Theo Chiều Gió mà phần lớn chúng ta đều đã đọc cũng như
coi nhiều lần suốt thời niên thiếu.
Bài
học từ câu chuyện đầu hàng. Chấm dứt chiến tranh.
Câu
chuyện về vị tướng phe bại trận miền Nam Robert Lee được viết ra và hình ảnh của ông lại được chiêm ngưỡng nhiều
hơn cả phe thắng trận.
Khi
thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn
bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui. Bộ tham mưu của Tướng Lee đề
nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng Tướng Lee quyết định đầu
hàng. Ông viết thư riêng cho Tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp
mặt.
Ông
Grant, vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc
không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam.Trưa
ngày 9 tháng 4-1865, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng
tuyến đến nơi hẹn. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính
miền Bắc thổi kèn chào đón.
Cả
hai vị tư lệnh đã từng biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ.
Theo
quy luật chiến tranh thời đó thì quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới
và quân dụng và được tự do trở về quê cũ. Tướng Lee đồng ý, nhưng đòi hỏi một
điều là cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ
các nông trại của họ đi chiến đấu chứ không phải ngựa của chính phủ cấp như
lính miền Bắc.
Tướng
Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ
cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà.
Sau
này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những
người quân tử (The Gentlemen’s Agreement).
Là
bại tướng nhưng trên các bảo tàng viện, đặc biệt ở Appomattox Virginia có tranh
sơn dầu hình Tướng Lee hiên ngang trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu
bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng dù thua vẫn không bị khuất phục. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ
bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ
nhục. Và tôi cho rằng đây chính là điều đáng yêu nhất của nước Mỹ. Lịch sử
không ghi lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào. Dù trên thực tế dư vị cay
đắng giữa Nam Bắc vẫn còn nhiều.
Dễ
gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một
số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao? Hai phe cùng đốt nhà của nhau
và cùng tàn phá đô thị, nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm
hiếp phụ nữ và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá
khích? Nhưng thời gian rồi cũng xoa mờ
những vết thương đau đớn ấy. Và Bảo tàng viện “Ðầu hàng” và nghĩa trang phe
thua trận Arlington thường dạy chúng ta bài
học làm người văn minh.
Rồi
vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy
màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng
người bại trận như những anh hùng.
Ngay
sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, ai về nhà đó, cùng
xây dựng lại quê hương.
Bây giờ hình tượng
của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee,
Lee High Way, Fort Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng
thua trận như là một biểu tượng anh hùng.
Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học về người lính dũng cảm cả hai phe trong
chiến tranh và người quân tử của thời hậu chiến.
Khi chúng tôi trao đổi với nhau về sự
kiện lịch sử đáng trân trọng này, anh
Nguyễn Minh Nữu ngậm ngùi ngâm hai câu thơ
trong bài hát về nghĩa trang Arlington của ( Nguyển Đức Quang)
Đã bảo vết thương không nhắc nữa
Mà
sao thấy sẹo cứ bâng khuâng!
Nước mắt tôi và
Nguyên Minh ươn ướt. Nhìn người lại ngẫm đến ta, không những bâng khuâng mà còn
xót xa, trăn trở.
Mong lịch sử quay
lại là một điều không tưởng. Nhưng bọn viết lách là
những người mơ mộng. Biết yêu cái đẹp và
thích điều thiện. Tôn trọng tính nhân văn. Đọc lịch sử, trông người rồi ngẫm nghĩ… cảm xúc trong lòng
trào dâng khó tả. Một nỗi nghẹn ngào,
cay đắng.
Ôi, hãy khóc lên hỡi quê hương yêu dấu!
4- Những chiếc lá..hốt hoảng
tìm nhau
Khi chúng tôi rời Virginia để về lại San
Jose, miền Tây nắng ấm nên nhiều chiếc lá rụng đã khô. Có những trận gió lốc
làm lá bay lơ lửng trong không khí. Rồi những chiếc lá rơi. Gió thổi xào xạc
bên đường làm tôi chợt nghĩ là chúng đang hốt hoảng chạy đi tìm nhau, cùng trở
về cành, những người con yêu văn chương, nghệ thuật. Để, dù xa quê, mà lòng còn
ấm áp bên nhau.
…chúng ta chỉ còn nhau thôi
còn nhau trong nghĩa tình yêu chữ này (****)
còn nhau trong nghĩa tình yêu chữ này (****)
đó
là chất liệu gắn kết chúng tôi. Dù ở cách xa nhau nửa vòng trái đất.
Cả
đoàn chúng tôi không thích đời sống buồn buồn ở Mỹ thế nhưng lúc ra sân bay San
Francisco để về lại Sài Gòn mắt người nào cũng ươn ướt. Có lẽ không phải vì rời
xa đất nước này, mà là bạn tình bạn sâu sắc, chia sẻ cảm xúc và tâm hồn.
Thương
lắm những người bạn chưa gặp mà quen, mới quen mà nhớ! Mấy ngày trước, anh Đinh
Cường đã buồn lắm khi nghĩ đến ngày chia tay. Đây là hai câu thơ của anh viết
giữa khuya hôm đó:
…mai kia mốt nọ đi thôi
bạn về xứ bạn tôi còn bóng tôi… (****)
bạn về xứ bạn tôi còn bóng tôi… (****)
Vâng, anh Đinh Cường ơi, những kẻ mơ mộng
thường rất sợ bơ vơ và lạc lõng giữa cõi đời!
Trương Văn Dân
Sài Gòn, 21-11-2015