NGÔ THẾ VINH
KLCM: lấy máu của đất Thái Lan
chuyển dòng lấy nước sông Mekong
Gửi
Nhóm Bạn Cửu Long
và Ủy Ban Mekong Việt Nam
và Ủy Ban Mekong Việt Nam
LÀM XANH CAO NGUYÊN ISAAN
Isaan
là một vùng châu thổ rộng lớn trên cao nguyên Khorat trong lưu vực sông Mekong,
bao gồm 20 tỉnh đông bắc Thái Lan, chiếm đến 1/3 toàn diện tích 514.000 km2 của
Thái với hơn 20 triệu dân cũng chiếm khoảng 1/3 dân số Thái nhưng vẫn còn là một
vùng nghèo và khô hạn, cho dù được bao quanh bởi con sông Mekong như một biên
giới thiên nhiên giữa Thái – Lào. Do sự toa rập giữa thực dân Pháp và Anh, họ
đã cắt một phần đất Lào sáp nhập vào Thái từ 1941, do đó cư dân Isaan đa số là
người Lào còn được gọi là Thai Isaan, nói cùng ngôn ngữ, chủ yếu sống bằng nghề
nông, tơ lụa và chài lưới. Còn phải kể tới một số không ít người Việt sinh sống
lâu năm tại đây.
Vào những năm 1960s, để đáp ứng với cường độ chiến
tranh gia tăng tại Việt Nam, đã lan rộng ra ba nước Đông Dương và cũng để ngăn
chặn Cộng sản xâm nhập vào đất Thái, người Mỹ đã ồ ạt đổ tiền vào phát triển
cao nguyên Isaan, mở mang hệ thống xa lộ tối tân, xây 4 phi trường quân sự chiến
lược, nơi phát xuất các đoàn máy bay phản lực oanh kích Bắc Việt và cả những
đoàn cấp cứu phi công Mỹ bị bắn rơi. Mỹ cũng giúp Thái xây các đập thủy điện
trên phụ lưu sông Mekong, nhằm điện khí hóa nông thôn, cải thiện hệ thống dẫn
thủy khiến mức sản xuất nông sản gia tăng.
Hình 1: cao nguyên Isaan (màu đỏ)
Thái
Lan bấy lâu vẫn là quốc gia xuất cảng lúa gạo lớn nhất thế giới nên “Nước” luôn
luôn là nhu cầu bức thiết để phục vụ nông nghiệp và cả kỹ nghệ. Isaan là vùng
nông nghiệp nhưng khô hạn, do đó “Nước” là chiêu bài để các chính trị gia Thái
tranh phiếu trong các cuộc bầu cử. Người dân sống trên cao nguyên Isaan luôn
luôn được hứa hẹn sẽ có một cuộc sống sung túc hơn nếu có thêm nước trong mùa
khô và để có được hai mùa gặt trong một năm. [Hình 1]
Rất
sớm, vào cuối thập niên 1980s, dưới thời chánh phủ quân phiệt với Thủ tướng
Chatichai Choonhavan, để giải quyết nạn thiếu nước trên tầm vóc quốc gia, giới
lãnh đạo Thái đã có “ý tưởng lớn” về một kế hoạch táo bạo chuyển dòng lấy nước
từ sông Mekong. Dự án mang tên Kong-Chi-Mun đi kèm theo với khẩu hiệu “Làm Xanh Isaan / Greening Isaan”.
– Dự Án
Kong-Chi-Mun:
Từ
1992, chánh phủ Thái đã chính thức tiết lộ một kế hoạch lớn lao với tổn phí lên
tới 4 tỉ Mỹ kim để cứu vùng đất Isaan đông bắc Thái luôn luôn bị khô hạn. Đó là
công trình Dẫn thủy KCM [Kong-Chi-Mun Irrigation Project] nhằm lấy nước từ khúc
sông Mekong gần Nong Khai để chuyển về chuỗi những con đập trên hai sông Chi và
sông Mun qua một hệ thống ống dẫn / aqueduct khổng lồ dài 200 km. (4)
Dự
tính ban đầu chỉ lấy nước sông Mekong trong mùa mưa, nhưng sau đó Thái Lan quyết
định lấy nước cả trong mùa khô với lưu lượng chuyển dòng lên tới 300 m3/ giây,
trên lưu lượng trung bình 1600 m3/ giây mùa khô / nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL).
Hình 2: dự án Kong-Chi-Mun
Cho
dù chính nhóm chuyên viên Thái có nhận định rằng sự lượng giá ảnh hưởng môi
sinh / Environmental Impact Assessment (EIA) còn thiếu sót và tổn phí thì quá
cao nhưng giai đoạn I của Dự án KCM vẫn cứ được thông qua. Hậu quả ban đầu của
Dự án KCM khi mới triển khai đã đưa tới hủy hoại các khu rừng lũ [flooded
forest], làm tăng nhiễm mặn các vùng trồng trọt đông bắc Thái, và gây những ảnh
hưởng tiêu cực trên đời sống cư dân địa phương. [Hình 2]
– 1994 Dự Án Kok-Ing-Nan
Chỉ
hai năm sau, chánh phủ Thái Lan đã nói tới một kế hoạch lớn thứ hai: Dự án
Kok-Ing-Nan. Đây là một dự án chuyển nước “xuyên
lưu vực / transbasin diversion” hết sức táo bạo: lấy nước từ lưu vực
sông Mekong chuyển sang lưu vực sông Chao Phraya, có quy mô rất lớn, tổn phí
lên tới 1,5 tỉ Mỹ kim.
Đó
là kế hoạch nhằm chuyển dòng nước từ hai phụ lưu lớn của sông Mekong là sông
Kok và sông Ing ở vùng Chiang Rai bắc Thái cho chảy qua những đường hầm /
tunnels khổng lồ dài hơn 100 km để chuyển nước vào sông Nan — sông Nan là một
phụ lưu của sông Chao Phraya. [Hình 3]
Hình 3: dự án Kok-Ing-Nan
Sông
Chao Phraya, như mạch sống của người dân Thái đang bị cạn dòng và nhiễm mặn. Lượng
nước từ con sông Kok và sông Ing sẽ được tiếp cho con đập lớn Sirikit, quanh
năm thiếu nước. Nước từ hồ chứa Sirikit không chỉ nhằm cung cấp nước tưới cho
những cánh đồng bao la vùng châu thổ Chao Phraya bị khô hạn, mà cả cung ứng nước
cho các khu kỹ nghệ đang phát triển và hàng chục triệu dân đang sống ở thủ đô
Bangkok.
Chánh
phủ Thái ở một vị trí đầy quyền lực để thực hiện Dự án Kok-Ing-Nan, vì cả hai
phụ lưu sông Mekong nằm trong lãnh thổ Thái. Khi công trình hoàn tất, Thái Lan
có khả năng chuyển 2.200 triệu mét khối nước/ năm [2,200 MCUM/ year] lấy từ lưu
vực của con sông Mekong chuyển sang lưu vực sông Chao Phraya.
Do
chưa có một Lượng Giá Ảnh Hưởng Môi Sinh EIA đầy đủ nên ngay từ con đập đầu
tiên Rasi Salai trong Dự án KCM hoàn tất năm 1994 đã gây ngay những ảnh hưởng
nghiêm trọng trên đời sống cư dân địa phương. Chỉ riêng hồ chứa của con đập này
đã làm ngập lụt cả một vùng đất đai đang canh tác của hơn 15 ngàn dân làng mà
đa số cho đến nay vẫn chưa được đền bù, không những thế con đập còn gây nạn nhiễm
mặn khiến nguồn nước gia dụng không còn dùng được nữa. Và cư dân địa phương đã
vận động đòi phá bỏ con đập này. (2)
Vì
nhiều lý do khách quan: do quá tốn kém, và cả bị đa số cư dân địa phương chống
đối mạnh mẽ nên Dự án Kong-Chi-Mun chỉ thực hiện được một phần giai đoạn I thì
bị gác lại một thời gian.
KLCM DỰ ÁN MỞ RỘNG:
CƠN ÁC MỘNG TRỞ LẠI
Năm
2008, Nội các chánh phủ Thái Lan lại một lần nữa đưa ra bàn thảo kế hoạch lấy
nước từ sông Mekong chuyển về cao nguyên Isaan. Dự án KCM / Kong-Chi-Mun nay lại
được phục hoạt nhưng mở rộng với tăng cường thêm những đường dẫn nước mới, có
tên là Dự án Kong-Loei-Chi-Mun / KLCM. Chi phí cho dự án KLCM vượt lên tới con
số 17 tỉ — tức mười bảy ngàn triệu Mỹ Kim. Công trình KLCM dự trù hoàn tất
trong 15 năm, kinh phí đầu tư có thể lên tới 76,8 tỉ Mỹ Kim. (3)
Một
câu hỏi được đặt ra: số tiền khổng lồ 76,8 tỉ MK này sẽ lấy từ đâu, và người ta
không thể không nghĩ tới nguồn tài chánh vô hạn đến từ Trung Quốc. Nghi vấn ấy
xem ra lại rất phù hợp với các bước chiến lược của đại kế hoạch One Belt One
Road (OBOR) trong Khối Hợp tác Lancang-Mekong do Bắc Kinh thành lập mới đây, mà
thực chất là âm mưu khống chế toàn lưu vực sông Mekong, và Việt Nam là quốc gia
cuối nguồn sẽ phải quỳ gối khuất phục.
Sông
Loei là tên một phụ lưu lớn khác của sông Mekong, bắt nguồn từ cao nguyên Phu
Luang chảy về hướng nam rồi đông nam như ranh giới thiên nhiên giữa hai tỉnh
Loei và Phetchabun, rồi lại chảy vòng lên hướng bắc qua huyện Chiang Khan trước
khi đổ vào sông Mekong.
Từ
tháng 4 năm 2016, Cục Thủy Lợi Hoàng Gia Thái [RID/ Royal Irrigation
Department] đã bắt đầu bơm lấy nước từ sông Mekong, cùng lúc cho chuyển nước từ
sông Loei tới cao nguyên Isaan, đi qua một “Cổng Lũ / Flood Gate Si Sin Rak”. Gọi
là “Cổng Lũ” nhưng đó chính là một con đập được xây ngay nơi cửa sông Loei. Cư
dân địa phương từ hai tỉnh Ban Klang và Chiang Khan chống đối mạnh mẽ dự án xây
con đập Si Sin Rak này.
Trong
một cuộc tụ họp, một phụ nữ trong làng đã lên tiếng: “Chúng tôi đã sống ở đây
qua nhiều đời, và muốn được tiếp tục sống ở nơi đây chứ không muốn phải dời đi
nơi khác chỉ để được đền bù.” Và dân làng cũng được biết là chưa hề có được một
Lượng Giá Ảnh Hưởng Môi Sinh EIA trước khi xây con đập Si Sin Rak này. Trong
khi đó thì Cục Thủy Lợi Hoàng Gia Thái bảo cho họ biết là Lượng Giá Ảnh Hưởng
Môi Sinh EIA “không cần thiết vì chỉ có khoảng 500 gia đình chịu ảnh hưởng”.
Nhưng hàng ngàn dân làng thuộc tỉnh Ban Klang vẫn nhất quyết yêu cầu chánh phủ
thực hiện nghiêm chỉnh một EIA trước khi triển khai dự án đập này.
CÁI GIÁ CỦA NGUỒN
NƯỚC TỚI ISAAN
Với cư
dân Isaan. Do KLCM là một dự án đầu tư nhằm sinh lợi.
Cho dù với chiêu bài lấy nước để cải thiện mức sống cho nông dân nhưng nguồn nước
ấy lại quá đắt với họ. Và chưa có câu trả lời rõ ràng từ Cục Thủy Lợi Hoàng Gia
Thái là bằng cách nào nông dân có thể trả tiền điện để bơm lấy nước từ sông
Mekong, trong khi giá lúa gạo mà họ sản xuất ra thì vẫn rẻ mạt so với giá thị
trường. Sự thịnh vượng như hứa hẹn thì chưa tới đâu nhưng dự án ấy đã gây ra
bao nhiêu phiền toái làm xáo trộn cuộc sống vốn đang an bình của cư dân địa
phương.
Với cư
dân Hạ nguồn. Cho dù ban đầu, Thái cho biết chỉ bơm lấy
nước từ sông Mekong trong mùa mưa lũ (flooding / rainy season) nhưng rồi trong
thực tế họ vẫn liên tục lấy nước sông Mekong cả trong mùa khô từ tháng 2 tới
tháng 5. Đây là một chiến dịch liên tục lấy nước “thầm lặng” mà không có thông
báo chính thức gì cho cộng đồng quốc tế và các quốc gia dưới nguồn.
Điều
này phần nào giải thích được tại sao, mới đây vào mùa lũ đã không còn nguồn nước
lũ đủ mạnh từ dòng chính sông Mekong chảy ngược từ con sông Tonle Sap vào Biển
Hồ như trái tim của Cam Bốt đang thoi thóp; và ĐBSCL vào mùa mưa lũ đã không
còn Mùa Nước Nổi và đến mùa khô thì nguồn nước cạn kiệt và cả một vùng châu thổ
lâm cảnh đại hạn.
Những
sự kiện được ghi nhận từ ĐBSCL năm nay 2016: mực nước hai con sông Tiền sông Hậu
đã xuống tới mức thấp nhất từ 90 năm qua kể từ 1926 và mức độ nhiễm mặn thì trầm
trọng hơn đã tiến sâu và rất xa tới gần sát biên giới Việt Nam và Cam Bốt.
NGUỒN NƯỚC PHẢI ĐƯỢC CHIA XẺ CÔNG BẰNG
Việt
Nam là một quốc gia cuối nguồn, và Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đại diện cho Việt
Nam đã vi phạm một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp ước Sông Mekong 1995
là từ bỏ quyền phủ quyết / veto power. Nhưng điều ấy không có nghĩa là các quốc
gia thành viên thuộc Ủy Hội Sông Mekong / Mekong River Commission [MRC] có toàn
quyền khai thác nguồn nước sông Mekong chỉ để phục vụ cho quyền lợi của riêng
mình. Bất cứ dự án nào như xây đập thủy điện, chuyển dòng lấy nước từ sông
Mekong đều phải thông báo cho các quốc gia lân bang như Việt Nam, Cam Bốt và
Lào. Do đó Dự án KLCM không thể chỉ đơn thuần là quyết định của Cục Thủy Lợi
Hoàng Gia Thái nhưng đó còn là trách nhiệm của Ủy Ban Sông Mekong Thái Lan /
Thái National Mekong Committee — là một trong 4 thành viên của MRC. Cũng vẫn
theo Tinh thần của Hiệp ước Sông Mekong 1995, mọi kế hoạch khai thác tài nguyên
sông Mekong phải là những bước Phát triển Bền vững / Sustainable Development
trong bối cảnh toàn vùng, trong ý nghĩa đó thì phải có những bảo đảm nguồn nước
sông Mekong phải được chia xẻ công bằng cho mỗi quốc gia trong lưu vực.
Điều
7 trong “Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong” 1995: Các quốc gia thành viên ký kết cùng đồng ý là
“bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại
trên môi trường, đặc biệt là lượng và phẩm chất nước, những điều kiện của hệ thủy
sinh học, và sự cân bằng sinh thái của dòng sông, do phát triển và sử dụng Lưu
vực Sông Mekong.”
Theo
tinh thần đó, các dự án khai thác Sông Mekong vẫn phải trải qua thủ tục tham vấn
PNPCA: thông báo, tham vấn trước, và chuẩn thuận — có nghĩa là được sự đồng ý của
các nước thành viên trong Ủy Hội Sông Mekong MRC.
Nhưng
trong thực tế hiện nay, như chúng ta đã thấy, trên nửa khúc sông Mekong thượng
nguồn Bắc Kinh đã ngang ngược xây một chuỗi những con Đập Bậc Thềm Vân Nam, bất
chấp mọi ảnh hưởng ra sao với các quốc gia dưới nguồn. Rồi tới hai nước nhỏ Hạ
Lưu là Thái Lan và Lào cũng ngang ngược không thua gì Trung Quốc. Thái Lan vẫn
liên tục chuyển dòng lấy nước từ sông Mekong, Lào thì vẫn không ngừng khai thác
chuỗi 9 con đập dòng chính sông Mekong bất chấp mối quan tâm lo ngại của hai quốc
gia dưới nguồn là Cam Bốt và Việt Nam.
MỘT MẠNG LƯỚI
TÙY VIÊN MÔI SINH
Trước
nguy cơ một ĐBSCL – vốn là vùng châu thổ phì nhiêu, vựa lúa gạo của cả nước,
đang có dấu hiệu bị tan rã và chết dần; ngoài một vài tiếng nói phản đối rất
đơn lẻ và yếu ớt như một chiếu lệ, Việt Nam vẫn chưa hề có một chiến lược chỉ đạo
bảo vệ nguồn tài nguyên sông Mekong nói chung và cũng là kế hoạch cứu nguy cho
ĐBSCL nói riêng. Ủy Hội Sông Mekong MRC trong đó có Ủy Ban Mekong Việt Nam đã
chứng tỏ là bất lực và hầu như vô hiệu.
Chúng
ta chưa thể nào quên tấn bi hài kịch tháng 3, năm 2016 khi “Thủ tướng Việt Nam Cứu nguy ĐBSCL”
bằng cách lên tiếng kêu gọi Trung Quốc gia ơn xả nước từ con Đập thủy điện Cảnh
Hồng để cứu hạn cho ĐBSCL.Và kết quả ra sao thì câu trả lời là thảm cảnh một số
nông dân miền Tây do thiếu nước đã phải bỏ ruộng đất ra đi lang thang để kiếm sống.
Với
“cuộc chiến môi sinh” đang thầm lặng diễn ra, cho dù có muộn nhưng đây chính là
lúc Việt Nam cần vận dụng toàn sức mạnh về chính trị, ngoại giao và cả quân sự
nữa để cứu nguy cho cả một vùng đất đai trù phú của đất nước và một Nền Văn
Minh Miệt Vườn đang đứng trước nguy cơ bị tiêu vong.
Hình 4: Cảnh khô hạn nơi Đồng Bằng
Sông Cửu Long
[nguồn: VNExpress
11.03.2016]
Cách
đây ngót hai thập niên, người viết đã đề nghị thành lập một Phân khoa Sông
Mekong như một “think tank” nơi Đại học Cần Thơ, nhưng rồi được biết mọi quyết
định đã bị “nghẽn mạch” ngay từ Hà Nội. Kế hoạch gì thì cũng phải xuất phát từ
Hà Nội. [sic]
Hiện
nay chúng ta, người dân Việt Nam biết rất ít những bước hủy hoại đang âm thầm
diễn ra trên suốt dòng chảy Sông Mekong.
TS
Lê Anh Tuấn thuộc Đại Học Cần Thơ, đã phản ảnh rất rõ tình trạng thiếu thông
tin này khi trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Hoàng Hương, Tuần Việt Nam; ông nói:
“Tôi đã tiếp xúc nhiều quan chức và nhà khoa học
trong khu vực và ở Việt Nam, có nhiều dự án trên sông Mekong họ không được biết
hoặc biết với thông tin rất mù mờ. Cộng đồng nông dân/ ngư dân thường là những
đối tượng bị tác động trực tiếp, nhưng không ai đứng ra công bố rõ ràng và đầy
đủ và lấy ý kiến tham vấn với họ.”
Vậy
thì ai có khả năng thâu thập những thông tin ấy? Tình cảnh một nhà báo tự
do ở hải ngoại như Tưởng Năng Tiến, một giáo sư môi sinh từ Đại Học Cần Thơ như
TS Lê Anh Tuấn, đã phải dùng từ ngữ “xâm nhập” khi tới thăm hiện trường xây đập
con Don Sahong vì tới những nơi ấy không phải không có hiểm nguy, không được bảo
vệ vì là vùng cấm.
Hình 5: TS Lê Anh Tuấn, trong
chuyến du khảo
trên sông Loei một phụ
lưu Sông Mekong
[nguồn: TuanVietnam.net]
Tình
trạng thiếu minh bạch – no
transparency, giấu giếm thông tin về các khu xây đập, khai thác nguồn
nước sông Mekong từ Vân Nam Trung Quốc xuống tới Lào, những nơi ấy được bảo vệ
như những trọng điểm chiến lược, như các căn cứ quân sự. Chính bản thân người
viết đã trải qua kinh nghiệm này khi tới thăm con đập Manwan/ Mạn Loan trên Vân
Nam, con đập dòng chính đầu tiên trên sông Mekong của Trung Quốc.
Vậy
thì ai có quyền “đặc miễn” để có thể tiếp cận với những cứ điểm ấy nếu không phải
là cấp tùy viên của các Tòa Đại sứ. Nếu đã có những tùy viên văn hóa, tùy viên
quân sự, tại sao không có “tùy
viên môi sinh” nơi 6 quốc gia trong lưu vực sông Mekong. Nhiệm vụ của
mỗi tùy viên môi sinh ấy là tiếp cận, theo dõi và thu thập thông tin cập nhật về
các bước khai thác trên suốt dọc sông Mekong. Họ phải là thành viên không thể
thiếu trong Toán Đặc Nhiệm / Task Force
liên bộ của Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ sông Mekong và cứu nguy ĐBSCL. Đây như
một đề nghị cấp thiết gửi tới Bộ Trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, kiêm Phó
Thủ tướng và cũng là Ủy viên Bộ Chính Trị, ông cũng từng đảm nhiệm chức Phó Chủ
tịch Ủy ban Sông Mekong Việt Nam năm 2010.]
Ngô Thế
Vinh
California, 10.10.2016
THAM KHẢO:
1/ $17
Billion Project Proposes Changing Course of Asia’s Mekong River, VOA’s
Khmer Service, by
Neou Vannarin, September 16, 2016
2/ Water
Diversion: A Re-emerging Threat to Mekong Water Security,by Hoang Duong, July 29/2016, https://www.internationalrivers.org/blogs/259/water-diversion-a-re
emerging-threat-to-mekong-water-security
3/
Diverting the Mekong River into Thailand: The Khong-Loei-Chi-Mun project.
Mekong Commons. Environmental Justice, June 6, 2016
4/
Mekong – Cửu Long 2011, A Look Forward Into The Next Half Century, by Ngô Thế
Vinh, Viet Ecology Foundation, http://vietecology.org/Article.aspx/Article/61#