NGÔ THẾ VINH
NHỮNG NĂM ẢO VỌNG
GIÁO SƯ PHẠM HOÀNG HỘ
VÀ BỘ SÁCH CÂY CỎ VIỆT NAM
Hình 1: chân dung Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ
[nguồn: bìa lưng bộ sách Cây Cỏ Việt Nam]
Peter Shaw Ashton, Giáo Sư Charles
Bullard
Ngành Lâm Học, Đại Học Harvard
"Với những ghi chú bằng tiếng Anh,
cùng với những nét minh hoạ tinh vi của hơn 10,500 chủng loại, bộ sách HoạHình
Cây Cỏ Việt Nam / Illustrated Flora of Vietnam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã
cung cấp cho giới độc giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham
khảo thấu đáo mà chúng tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng
đài của sự quyết tâm, cống hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả. Giáo
sư Phạm Hoàng Hộ hầu như đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có
tầm vóc hàn lâm / academic tại Đại Học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn.
Trong hoàn cảnh cực kỳ thử thách ấy, giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu
cho bộ sách đặc sắc này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để
minh hoạ. Và nay công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà
sinh học trẻ ở Việt Nam và cả ở hải ngoại.
"Cây cỏ Việt Nam có thể lên tới
12,000 chủng loại. Bởi vì xứ sở này nằm sát bờ Thái Bình Dương Á Châu nhiệt đới,
đó là hành lang cho những chuyển dịch theo chu kỳ bắc-nam / periodic
north-south migration của thảm thực vật vô cùng phong phú từ phía nam Trung Hoa
và phong phú hơn nữa là thảm thực vật xích đạo Mã Lai / equatorial flora of
Malaysia. Trên các rặng núi vẫn còn lưu lại những chủng loại tùng bách / conifer
và thực vật có hoa / angiosperm taxa có tầm quan trọng vô song, trong khi các
vùng bình nguyên mang dấu ấn của quá khứ có liên hệ tới các vùng hải đảo Phi Luật
Tân và Borneo Nam Dương. Đến nay sự phong phú này hầu như tiêu vong. Những nỗ lực
của chính phủ Việt Nam trong chiến lược trồng cây tái sinh và bảo tồn sẽ được hỗ
trợ bởi công trình của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ như một hồ sơ theo dõi các thảm thực
vật đến nay còn tồn tại."
TIỂU SỬ:
GS Phạm Hoàng Hộ, trên giấy tờ ngày sinh là 3 tháng 8 năm
1931 tại An Bình, Cần Thơ. Nhưng theo cáo phó mới đây của gia đình GS Hộ sinh
năm Kỷ Tỵ 1929, mất ngày 29 tháng Giêng năm 2017 tại Montréal, Canada hưởng thọ
89 tuổi. Anh Phạm Hoàng Dũng, con trai GS Phạm Hoàng Hộ xác nhận là "Ba tôi sinh năm Kỷ Tỵ 1929, nhưng theo lệ ngày xưa thì
lâu sau đó mới khai sinh, là năm 1931".
Văn Bằng:
-- 1953: Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học, Paris
-- 1955: Cao học Vạn Vật học, Paris
-- 1956: Thạc sĩ / Agrégé Vạn vật học
-- 1962: Tiến sĩ Khoa học / Vạn vật học, Paris
Chức Vụ:
-- 1957-1984: Trưởng phòng Thực vật Đại học Khoa học Sài Gòn
-- 1965-1984: Giáo sư Thực vật học Đại học Khoa học Sài Gòn
-- 1962-1966: Giám đốc Hải học viện Nha Trang
-- 1963-1963: Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn
-- 1963: Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục
-- 1966-1970: Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ
-- 1978-1984: Chủ bút tuần báo Khoa học Phổ thông Sài Gòn
-- 1984-1989: Giáo sư Khảo cứu tại Viện bảo tàng Thiên nhiên
Quốc gia Paris
Hội viên Khoa học:
-- 1956: Hội viên Hội Thực vật học Pháp
-- 1963: Hội viện Hội Tảo học Quốc tế (International
Phycological Society)
-- 1964: Hội viên Sáng lập Hội Sinh học Việt Nam
-- 1965: Phó Chủ tịch Uỷ ban Danh từ Việt Nam
-- 1967: Hội viện Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế (APU)
-- 1969: Sáng lập viên Niên san Đại học Cần Thơ
-- 1971: Hội viên Uỷ ban Thẩm định hậu quả chất Da cam tại
Nam Việt Nam, Viên Hàn lâm Khoa học Quốc gia, Hoa kỳ.
-- 1973: Cố vấn Môi
sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong (MRC)
Ấn phẩm:
-- 1960: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam (Flore Illustrée du Sud
Vietnam)
Bộ Giáo
dục Việt Nam: 1 vol., 803 pp., 275pls.
-- 1964: Sinh học Thực vật
Bộ Giáo
dục Việt Nam: 1 vol., 861 pp., nhiều hình
-- 1968: Hiển hoa Bí tử
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam:
506 pp.,264 pls.
-- 1969: Rong Biển Việt Nam
Trung
tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 558 pp., 493 figs.
-- 1970: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển I
Trung
tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1115 pp., figs. 2787
-- 1972: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển II
Trung
tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1139pp., figs. 5272
Cây cỏ Việt Nam: An illustrated Flora of VietNam
-- 1991, Tập 1 Quyển I: Khuyết Thực Vật. Loã Tử. Hoa-cánh-rời đến Tiliaceae
-- 1992, Tập 1 Quyển II Hoa-cánh-rời từ Eleagnaceae đến Apiaceae
-- 1993, Tập 1 Quyển III Từ Smilacaceae...Cyperaceae... Poaceae...đến
Orchidaceae
-- 1991, Tập 2 Quyển I Hoa-cánh-rời từ Sterculiaceae đến Fabaceae
-- 1993, Tập 2 Quyển II Từ Daphniphyllaceae ... Fagaceae… Apocynaceae đến Scrofulariaceae
-- 1993, Tập 2 Quyển III Từ Smilacaceae... Cyperaceae... Poaceae ...đến
Orchidaceae
-- 1998: Cây cỏ có vị thuốc ở Việt Nam
Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh: 860 pp.,
Mô tả 2149 loài có vị thuốc gặp ở Việt Nam
Vẫn trong bản Tóm lược sự nghiệp Khoa học, GS Phạm Hoàng Hộ
tâm sự: "Có lẽ vì lúc còn rất nhỏ
tôi đã sống ở nơi vườn tược, ruộng đồng xanh um vùng châu thổ sông Cửu Long,
nên từ nhỏ tôi đã thích cây cỏ. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của bông Súng ở ruộng hay ao, lộng lẫy dưới ánh mặt trời ban mai, hay hình ảnh của bông
Nhãn lồng phơi mình dựa bờ ruộng. Nên Thực vật học và Sinh học Nhiệt đới đã hấp
dẫn tôi lúc đi du học. Và lúc học ở Đại học Khoa học Paris, tôi đã bắt đầu tìm
hiểu Cây cỏ Đông Dương. Tiếp xúc đầu tiên một cách khoa học với Cây cỏ ấy, tôi
thực hiện ở Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris. Lúc mới học Vạn vật, tôi
đã vào nhà kiếng của Viện này để tìm coi có loại nào ở nước nhà hay không. Và một
số loài đã được vẽ từ lúc ấy! Tôi nhớ một số Lan đã được vẽ từ năm 1950, trong
nhà kiếng ấy. Đó là những hình "xưa" nhất của bộ Cây cỏ của tôi. Sau
này khi làm luận án Cao học, cũng ở Viện ấy, tôi mới có dịp vào Thảo Tập, và nhiều
hình, nhất là của giống Ficus, khó, vì chưa nhiều loài đã được vẽ vì ngại sự
khó khăn ấy về saukhi về bên nhà mà tài liệu thật là khó kiếm. Thật ra lúc ấy
tham vọng của tôi vô cùng khiêm tốn, là sau này được biết các loại Ficus Việt
Nam mà thôi! Cũng đã quá sung sướng rồi.
Sau khi thi đậu Thạc sĩ / Agrégation hạng
sáu, trên 300 thí sinh, và chỉ có 30 đậu, năm 1956 tôi về nước.
[*] Ghi chú của
người viết: cần phân biệt với bằng Thạc sĩ hiện nay ở Việt Namtương đương với
cao học/ master, trong khi Thạc sĩ / Agrégé ở Pháp là học vị về sư phạm, trải
qua kỳ thi tuyển khó khăn, nếu thi đậu sẽ trở thành giáo sư thực thụ /
professeur titulaire từ bậc trung học / lycée tới các trường cao đẳng /
enseignement supérieur thuộc các ngành Khoa học, Y dược, Luật khoa.
Giáo sư Hộ viết tiếp: "Lúc ấy tham
vọng của tôi chỉ là về dạy học ở một trường Trung học, và lúc rảnh rang sẽ tìm
hiểu cây cỏ của vùng Lục tỉnh mà thôi, nhưng Viện Đại học Sài Gòn và Hải học viện
Nha Trang "kéo" tôi về giảng dạy và trông nom Hải học viện. Khi làm
việc ở Nha Trang tôi khảo cứu Rong biển, như là một phận sự. Và sau vài năm khảo
cứu dưới sự hướng dẫn của Giáo sư J. Felmann, tôi hoàn thành luận án Tiến sĩ mà
tôi trình ở Đại học Paris, năm 1961. Công trình này được đăng trong Niên san
Khoa học Đại học đường Sài Gòn, và trong quyển Rong biển Việt Nam, cũng như một số ấn phẩm trong vài tạp chí khoa
học.
Ở Sài Gòn, phận sự chính của tôi là giảng
dạy Thực vật và Sinh học Thực vật (thay thế Giáo sư Pháp Roger, một nhà chuyên
môn về nấm gây bệnh cây) cho sinh viên dự bị và chuyên khoa. Chính vì muốn giảng
dạy tốt, thích nghi vào điều kiện nhiệt đới Việt Nam, các môn ấy mà tôi lục lạo
và sau đó cho ra đời công trình mà sau này sẽ là công trình của đời tôi là Cây cỏ Việt Nam. [trích dẫn tư liệu gia
đình GS. Phạm Hoàng Hộ: Văn Bằng, Sự
Nghiệp Khoa Học của Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Thực vật học].
1959-1960, tôi / người viết bài này mới chỉ là sinh viên lớp
dự bị Y khoa PCB / Physique Chimie
Biologie tại Đại học Khoa học Sài Gòn và được học Thầy Hộ mới tốt nghiệp Thạc
sĩ ở Pháp về, dạy môn Sinh Học Thực vật. Tuy chỉ được học Thầy một năm, nhưng
Thầy đã để lại cho đám sinh viên và riêng tôi một niềm cảm hứng với những dấu ấn
rất khó phai mờ. Vào trường Y khoa rồi, không còn được học Thầy Hộ nhưng tôi vẫn
mang lòng ngưỡng mộ và cả theo dõi những bước đi và sưu tập những bộ sáchcông
trình nghiên cứu khoa học của Thầy.
Hình 2: Bộ sách Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam gồm 2
quyển,
do Trung tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục VNCH xuất bản
1970
[nguồn: internet Sách Xưa]
Vào đầu thập niên 1990, giới khoa học trong nước và hải ngoại
rất đỗi vui mừng khi bộ sách Cây Cỏ Việt
Nam của GS. Phạm Hoàng Hộ được lần lượt xuất bản. Theo GS Thái Công Tụng,
hiện định cư tại Montréal thì
các sách của GS. Phạm Hoàng Hộ hiện có đầy đủ ở Bibliothèque Jardin botanique Montréal, Canada, và dĩ nhiên là có trong nhiều thư viện lớn trên
thế giới.
Trọn bộ Cây cỏ Việt Namgồm hai Tập, mỗi Tập 3
Quyển, tổng cộng khoảng 3,600 trang, chưa kể Phần Từ Vựng tên Việt Nam và Từ Vựng
tên Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những năm tháng
giáo sư rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc.
Riêng tôi / người viết đã sớm có được trọn bộ
6 Quyển Cây Cỏ Việt Nam xuất bản ở hải
ngoại do bác sĩ Phạm Văn Hoàng nguyên
Giám đốc Trung Tâm Phục Hồi Cần Thơ, một đàn anh trong Y khoa gửi tặng, anh Phạm Văn Hoàng chính là
bào đệ của GS Phạm Hoàng Hộ.
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, là trước 1975,
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từng là Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Sông Mekong/
Mekong River Committee và khoảng năm 1974 hai Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Thái Công Tụng
đã có một nghiên cứu chung về Môi sinh Đồng Bằng Sông Cửu Long: The Mekong Delta, Its environment, Its
Problems;[do Bộ Canh Nông VNCH xuất bản, Sài Gòn 1974]; khi tìm kiếm tới
tài liệu có tính cách lịch sử ấy, tôi được anh GS Thái Công Tụng bùi ngùi cho
biết: là đã mất hết sau cơn binh lửa...
Để tìm hiểu thêm tại
sao, các tác phẩm khoa học của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ lại được ưu tiên xuất bản
bằng tiếng Việt cho dù ngôn ngữ chính thông thạo của GS. Hộ trong suốt quá
trình đào tạo và giảng dạy là tiếng Pháp.
Trong
lời mở đầu quyển Rong Biển Việt Nam xuất bản năm 1969, GS. Phạm Hoàng Hộ
viết: "Lúc đầu, quyển sách này được thảo bằng ngoại ngữ, khi làm việc ở Hải
học viện Nha Trang và ở Museum, và tôi có hoài bão được xuất bản trong ngoại ngữ
ấy để công bố công trình khảo cứu của mình ra bốn phương, như lời hứa ngầm lúc
trình luận án.
Song
nay tôi đã đổi ý và cho xuất bản bằng tiếng Việt Nam. Đó là để chứng minh rằng
ngôn ngữ nào, miễn được chăm sóc, đều có thể diễn tả kiến thức ở mọi trình độ.
Tôi biết rằng có nhiều người cho rằng không ấn hành trong một ngôn ngữ quốc tế
là phí công, giới khảo cứu làm sao biết đến. Nhưng tôi thấy chẳng cần đến việc ấy.
Được mấy mươi triệu người Việt Nam biết và dùng, có giá trị hơn là được vài
ngàn học giả chuyên môn thưởng thức. Tôi đã bỏ cái tự hào sai là tranh đua cùng
người ngoài để tự tạo lấy thanh danh, "làm thơm lây dân Việt". Tôi
tin rằng cái tự hào ấy không thực tế, vì một người Việt Nam hay, không bằng nhiều
người Việt Nam khá: cầm đuốc soi thành phố người có vẻ không thức thời trong
khi nước nhà còn u ám. Cái tự hào trên thật ra chỉ để che đậy sự trốn trách nhiệm,
sự bỏ phận sự trước con cháu chúng ta một cách không tha thứ được.
Tạo
ra cho chúng ta một nền văn chương khoa học là một công trình rất bao la. Vì thấy
nó qúa to tát nên nhiều học giả chấp nhận giải pháp dễ nhất: học ngay trong văn
chương khoa học ngoại ngữ vô cùng phong phú, dồi dào. Cái học như vậy sẽ cho ta
những người giỏi, nhưng ta không quên rằng nền văn minh bây giờ là văn minh của
đại chúng chứ không phải của vài người được nữa. Ta đừng để cho sự phong phú của
văn hoá nước ngoài đè bẹp ta. Người Nhật, cách đây một thế kỷ, há đã không hoảng
sợ trước sự hùng mạnh của khoa học nước ngoài sao? Mà nay họ đã tự tạo được một
một nền văn chương khoa học riêng biệt đã đến lúc gần hay hơn cả những nước ấy!
Hơn
lúc nào hết, câu của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn vẳng bên tai: "Nước Việt Nam
ta sau này hay hay dở là ở chữ quốc ngữ". Trong thế giới tương lai, sự lệ
thuộc về văn hoá, nhất là về văn hoá khoa học sẽ là sự lệ thuộc chánh". [Lời
Mở Đầu của quyển Rong Biển Việt Nam; Trung Tâm Học Liệu, Bộ, Giáo Dục xuất bản
1969].
Hình 3: mấy dòng tiểu sử
của GS. Phạm Hoàng Hộ cùng với Lời Tựa của
Peter Shaw Ashton, nhà sinh học gốc
Anh, Tiến sĩ Đại Học Cambridge,
Giáo Sư Charles Bullard ngành Lâm Học,
Đại Học Harvard
nơi bìa sau của bộ sách Cây Cỏ Việt Nam
[Quyển II, Tập 2]
xuất bản tại Montréal
1993
Hình 4: Một số hình bìa bộ sách đồ sộ Cây Cỏ Việt Namgồm 6 Quyển 2 Tập
của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ xuất bản tại hải ngoại
[nguồn: Ngô Thế Vinh]
CHẶNG ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ những năm sau 1975, là một
tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền
Nam mà Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là một biểu tượng.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây cỏ Việt Nam đã được
thực hiện qua 4 giai đoạn:
-- Nghiên cứu giai đoạn một: hợp tác với
GS Nguyễn Văn Dương về phần dược tính, Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, do bộ Quốc
gia Giáo dục ấn hành năm 1960 mô tả 1,650 loài thông thường của Miền Nam,
"Đó là giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực-vật-chúng chưa quen thuộc đối
với một sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về.
-- Nghiên cứu giai đoạn hai: kỳ
tái bản lần hai 1970 bộCây cỏ Miền Nam Việt Nam, số loài lên được 5,328[Hình 2].
"Đó là giai đoạn mà tôi xem như vàng son của một nhà thực vật học Việt Nam
chúng ta. So với bây giờ, lúc ấy tôi yên ổn làm việc, có nhiều phương tiện cá
nhân cũng như của non nước và nhất là được sự khuyến khích của mọi giới, bạn bè
cũng như chính quyền.
-- Nghiên cứu giai đoạn ba: tiếp tục công
việc nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây cỏ Miền Nam Việt Nam2,500
loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam.
Sau 1975, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như người bạn đồng hành
trí tuệ của ông làGiáo sư Nguyễn Duy Xuân đã cùng chọn ở lại để xây dựng đất nước
sau chiến tranh và thống nhất,nhưng với cái giá rất đắt mà sau này được GS Hộ
ghi lại là: "thời kỳ sống trong ảo vọng
là sẽ thấy đất nước đi lên. Giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở
trên đường Quê hương."
Tuy Giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn còn chức danh là
Hiệu phó [phó Khoa trưởng] Đại học Khoa học, nhưng chính quyền mới chỉ sử dụng
trí thức cũ như ông chủ yếu là “làm kiểng", không có vai trò tương xứng
trong giáo dục. Vì không là đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì Đảng bộ họp
riêng và quyết định, có việc ông không bao giờ được biết. Năm 1977 sau trải
nghiệm những ngày học chính trị, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ
nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức Miền Nam tổ chức tại TP Hồ
Chí Minh;từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo
đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu
chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.[Huy Đức, Bên Thắng Cuộc]
Rồi phải chứng kiến một thiểu số trí thức cũ
xu thời, mau chóng hợp tác toàn diện với chế độ mới, bất chấp sự liêm khiết, sẵn
sàngcống hiến những công trình mệnh danh khoa học theo phong tràođể mừng các
ngày lễ hội 3-2 hay 19-5 như các bài báo chứng minh "ăn mấy ký khoai mì bổ
bằng một ký thịt bò" hoặc là "ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo"...
những công trình "giả khoa học / pseudo-science " ấy đã mau chóng trở
thành giai thoại đầy mỉa mai được lan truyền trong các trại tù Cải tạo, nơi mà
đám tù nhân Miền Nam đang bị thiếu ăn suy dinh dưỡng với thực phẩm cung cấp chủ
yếu là gạo hẩm "đại mễ" của Trung Quốc cùng với với bo bo và khoai mì
/ ngoài bắc gọi là sắn.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng như số trí thức cũ
khảng khái của Miền Nam còn ở lại, thấy không thể tiếp tục sống trong một xã hội
giả dối và suy đồi đến như thế, việc ông đi tới quyết định phải chấm dứt những
năm "ảo vọng" và lãng phí ấy, là điều không thể tránh. Và rồi dịp ấy đã tới, năm 1984 khi được chính
phủ Pháp mời sang làm giáo sư thỉnh giảng, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quyết định
chọn cuộc sống lưu vong và ở lại Pháp.
-- Nghiên cứu giai đoạn
bốn:một giai đoạn mà giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là "vừa hiếm có vừa đau khổ nhất". Giáo sư Hộ viết tiếp: "Đau khổ vì rời quê hương mà không hy vọng
trở lại. Đau khổ vì xa gia đình thân yêu, vĩnh biệt mẹ hiền đã trọn đời hy sinh
cho các con. Đau khổ vì thấy đất nước thân yêu đang ở trong một nỗi khổ khôn lường,
một sự nghèo khôn tả, một sự tuyệt vọng thương tâm."
Nhưng rồi với hùng tâm, ông cũng vượt lên trên sựkhổ đau
khôn lường ấy. Giáo sư Hộ đã kiên nhẫn đằm mình trong Viện Bảo Tàng Thiên nhiên
Quốc gia Paris,cật lực làm việc ròng rã suốt sáu năm.Viện Bảo Tàng Thiên nhiên
Quốc gia ở Paris / Muséum
National d'Histoire Naturelle (MNHN) thuộc hệ thống Đại học Sorbonne,
bên tả ngạn Sông Seine, được thành lập từ thế kỷ XVIII thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cho rằng: "Hiếm có một nhà Thực vật học, nhất là người Việt Nam, đã lục lạo
cây cỏ ở nước nhà, lại được ở lại nghiên cứu tại Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc
gia Pháp, chứa một thảo tập phong phú vào bậc nhất thế giới, với 8 tới 10 triệu
mẫu vật cây cỏ. Ít nhất cho Việt Nam, nó là kho tàng duy nhất, vì chứa hơn 10
ngàn loài thu được ở nước ta. Trong sáu năm làm việc ở Viện ấy, không một ngày
nào mà khi chiều ra về, dù trời đông âm u lạnh lẽo, hay chiều hè vắng vẻ nóng
khô, mà tôi không thốt ra câu "Thật là một ngày tuyệt" vì đã biết
thêm cho Việt Nam ít nhất là một loài hiếm, lạ hay mới!" Trong giai đoạn
chót này, ông bổ túc thêm cho bộ Cây Cỏ được trên 3000 loài. Số loài mô tả khoảng
10,500.
Hình 5: Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia
Pháp, Paris
nơi Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đơn
độc làm việc ròng rã suốt sáu năm
để hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam [nguồn: internet]
Tại Pháp khi gặp lại người học trò cũ, nay đã là thành viên
trong ban giảng huấn Đại học Khoa học Sài Gòn,cũng đang làm việc tại Viện Bảo
Tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp nghiên cứu về Cá / Laboratoire d'Ichthyology, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã tâm sự:
“Tôi ráng làm càng nhiều càng tốt. Bộ sưu tập của Pháp rất
dồi dào, đúng phương pháp khoa học. Do được sưu tập từ mấy mươi năm trước, các
mẫu vật đã cũ, mình không làm gấp e sẽ hư hỏng thì uổng quá...Nhiều người Trung
Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực
vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài
nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta
xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn
trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi
thuộc Pháp!” [4]
Sau khi hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, Giáo sư
Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc
gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ôngđã rất chân thành tâm sự: "thực hiện những điều mà lúc nhỏ dù
điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước: nô lệ của một thuộc địa, học ở một
trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến tạo một quyển sách dù nhỏ
bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết cây cỏ cả nước!"
Người "trí thức đau khổ" Phạm Hoàng Hộđã vươn lên
và hoàn tất được "giấc mơ điên rồ" tưởng như không thể được ấy và trở
thành cây "đại thụ"trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả thế giới.
CHÚT GIAI THOẠI VĂN HỌC
Trong cuốn Bông Hồng Tạ Ơn, khi viết
về bộ sách của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhớ lại:"Các năm trước
1975, bộ sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ còn mang tên là Cây Cỏ Miền Nam. Cuộc
chia cắt đất nước đã giới hạn tầm mức của cuốn sách.Thế nhưng công trình của
giáo sư Phạm Hoàng Hộ không phải chỉ được coi là quý đối với các nhà chuyên môn
về thực vật học, mà theo nhà văn Võ Phiến có kể lại trong bộ sách Văn Học Miền
Nam soạn thảo tại hải ngoại sau 75, thì đã có nhiều nhà văn, [trong số đó có Nguyễn Đình
Toàn] đã tìm đọc cuốn Cây Cỏ
Miền Nam để biết thêm về một vài loại cây cỏ quanh mình, để khi cần, có
thể đưa vào tác phẩm".Giai thoại văn học này có lẽ, chính Giáo sư Phạm
Hoàng Hộ không hề biết tới.
SÁNG LẬP VIỆN ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Khoảng thập niên 1960, do sự vận động của các nhân sĩ trí thức
Cần Thơ, với hai tên tuổi hàng đầu là Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bác sĩ Lê Văn
Thuấn, Viện Đại học Cần Thơ được phép thành lập vàongày 31.03.1966 và cũng là Đại
học đầu tiên của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là
Viện trưởng đầu tiên của Đại học Cần Thơ từ 1966 tới 1970.
Với uy tín lớn về thành tích khoa học và cả về nhân cách,
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quy tụ được rất nhiều "chất xám" tinh hoa của
Miền Nam thời bấy giờ;chỉ riêng trong lãnh vực Nông Nghiệp có thể kể tới sự hợp
tác của những tên tuổi như GS Tôn Thất Trình, GS Thái Công Tụng, TS Nguyễn Viết
Trương, TS Trần Đăng Hồng với công lao bước đầu đưa giống Lúa Thần Nông/ HYV /
High Yield Variety vào ĐBSCL.
Rồi phải kể tới một đội ngũ giảng huấn đầy khả năng khiến Đại
Học Cần Thơ mau chóng trở thành một trung tâm giáo dục và khoa học có tầm cỡ,
đáp ứng nhu cầu trí tuệ của của một vùng châu thổ rộng lớn rất giàu nguồn tài
nguyên thiên nhiên nhưng chưa được khai thác. Để có thể thấy được thành quả bước
đầu của Viện Đại học Cần Thơ, đó là các lớp sinh viên đầu tiên trưởng thành và
tốt nghiệp 4 năm sau đó.
Giáo sư Đỗ Bá Khê trong "think tank" của Giáo
sư Phạm Hoàng Hộ, cũng đến từ Đại học Khoa học Sài Gòn, cách đây 47 năm, trong
bài diễn văn “xuất trường” của Viện Đại Học Cần Thơ, đã có một tầm nhìn rất xa
về vai trò của Viện Đại Học này đối với tương lai vùng Đồng Bằng Châu Thổ:
“Ngày nay
(19/12/1970) trong Thời Đại Khoa Học Kỹ Thuật, các tỉnh ĐBSCL đang
trông chờ nơi ánh sáng soi đường của Viện Đại Học Cần Thơ và ước mơ một chân trời
mới, tô điểm bằng những cành lúa vàng nặng trĩu, những mảnh vườn hoa quả oằn
cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù phú trong một xã hội công bằng.”
NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH GS NGUYỄN DUY XUÂN
Đến năm 1970, bước đầu xây dựng được một Đại học Cần Thơ vững
vàng, để có thể trở về Sài Gòn tiếp tục các công trình nghiên cứu khoa học và
giảng dạy, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ chính thức mời Giáo sư Nguyễn Duy Xuân về thay
ông, làm Viện trưởng thứ hai của Viện Đại Học Cần Thơ.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925
hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ 4 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học
Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học
Cần Thơ trên mọi lãnh vựctừ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn, xây
cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus
cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây. Ông là người tiên phong thực hiện
giáo dục đại học theo tín chỉ/ credits(thay vì chứng chỉ, certificat như trước
đây); giống như mô hình hệ thống Đại học Hoa Kỳ. Ông còn gửi cả một đội ngũ giảng
viên trẻ đi du học, điển hìnhnhư anh Trần Phước Đường đi Mỹ tốt nghiệp tiến sĩ
tại Đại học Michigan, sau đó họ trở về trường phục vụ ngành Sinh học, Giáo sư
Trần Phước Đường sau này trở thành Viện trưởng Đại học Cần Thơ từ 1989 tới
1997.
Năm 1972, ông cũng đích thân mời nhà nông học trẻ Võ Tòng
Xuân khi ấy đang công tác ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo
Quốc tế Los Banos Philippines về trường giảng dạy.Sau này anh Võ Tòng Xuân kể lại, khi nhận được thư của GS
Nguyễn Duy Xuân: “Anh Nguyễn Duy Xuân nói ĐBSCL là cái vựa của lúa gạo nên rất
cần những nhà khoa học về nông nghiệp. Chiến tranh rồi có ngày hòa bình, đất nước
sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong những lý do tôi về công tác ở Đại học
Cần Thơ.” TS Võ Tòng Xuân sau này trở thành một Giáo sư Nông học danh tiếng,
"Doctor Rice"tên tuổi anh
VTX gắn liền với sự phát triển của cây Lúa Thần Nông và sau đó anh là Viện trưởng
Đại học An Giang là Đại học lớn thứ hai của ĐBSCL sau Viện Đại học Cần
Thơ.
Chỉ trong vòng 9 năm [1966 - 1975] với công lao xây dựng của
hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại Học
Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và
nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm
và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền
Nam, đóng góp cho sự thăng tiếncủa vùng ĐBSCL.
TỪ ẢO VỌNG TỚI THẢM KỊCH
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng như GS Phạm
Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuânnhư một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa
cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chứcTổng
trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa
đầy một tuần lễ thì chính quyền Miền Nam xụp đổ, TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng.
GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo,sau đó bị đưa
ra Bắc, giam trong trại Tù Hà Nam Ninh, hầu như không có ngày về. Vẫn theo anh
Võ Tòng Xuân (VTX), năm 1983, trong một lần ra Hà Nội
dự họp, anh VTX đã vô trại Ba Sao để thăm lại vị Viện trưởng của mình khi còn ở
Viện Đại học Cần Thơ. Gặp lại đồng nghiệp, GS Nguyễn Duy Xuân rất mừng, và dù
đang trong nghịch cảnh tù đầy, ông vẫn đau đáu quan tâm hỏi han tới hiện trạng
của Đại học Cần Thơ, nơi mà ông và GS Phạm Hoàng Hộ đã dầy công xây dựng.
Tôi, người viết bài này không thể không tự hỏi
nếu không có 11 năm giam hãm đầy đoạ độc ácvà vô ích của những người Cộng sản
thắng cuộc, nếu GS Nguyễn Duy Xuân, một Tiến sĩ Kinh tế tài ba và giàu lòng yêu
nước như ông vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ
1966-1975, không biết Viện Đại học Cần Thơ sẽ tiến xa tới đâu.
Năm 1983 là lần gặp gỡ đầu tiên của hai Giáo
sư cùng tên Xuân sau 1975 ở trại Ba Sao và cũng là cuối cùng GS VTXđược gặp lại
GS Nguyễn Duy Xuân.Tiếp tục bị đầy ải thêm 3 năm nữa tổng cộng 11 năm, GS Nguyễn
Duy Xuân đã chết trong tù cải tạo Hà Nam Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong
đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa
tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Phải mãi đến tháng 4 năm 2015, gần 30 năm sau, di cốt của GS
Nguyễn Duy Xuân, mới được người con gái là bà Nguyễn
Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao Hà Nam Ninh về
Chùa Thiên Hưng, Quận Bình Thạnh Sài Gòn để lưu giữ tại đây. [5] Trong
buổi lễ cầu siêu, ngoài các thành viên của gia đình cố Viện trưởng Nguyễn Duy
Xuân, còn có một số cựu giảng huấn và các cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Cần
Thơ trước 1975 như GS Võ Tòng Xuân, TS Nguyễn
Tăng Tôn (cựu SV), TS Nguyễn Văn Mận (Cựu SV), KS Minh (Cựu SV) Ông
Hòa (nhân viên hành chánh), đến tham dự buổi lễ.
Hình 6: Trại tù Ba Sao Hà Nam Ninh, Miền Bắc Việt Nam,
nơi triền núi phía sau trại tù là nghĩa địa chôn vùi xác
nhiều tù nhân cải tạo có gốc từ Miền Nam sau 1975.
Hình 7: từ trái, GS Võ Tòng Xuân,bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga
con gái GS Nguyễn Duy Xuân,
ôm bình tro cốt của cha, bạn trai Alan và một thân hữu [nguồn: Võ Tòng Xuân]
VIỆN ĐẠI HỌC CẦN THƠ SAU 1975
Thay thế Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân là ông Phạm Sơn
Khai,gốc Miền Nam Tập kết là đảng viên Cộng sản, với học vị "Chuyên Ngành Lịch Sử Đảng",
ông Khai được đề cử giữ chức Viện trưởng và lãnh đạo Đại học Cần Thơ trong suốt
13 năm từ 1976 tới 1989.
Kể từ sau 1975, chính quyền mới với chủ trương một nền giáo
dục "hồng hơn chuyên" nên học trình của Đại học Cần Thơ, cũng như
toàn hệ thống các Đại học Miền Nam đã có thêm môn học chính trị cưỡng bách "Chủ nghĩa Mác Lê và Tư Tưởng Hồ Chí
Minh". Một môn học mà "thầy không muốn dạy, trò không muốn học"
nhưng vẫn cứ được duy trì cho đến ngày hôm nay. Ngót nửa thế kỷ, 42 năm sau
ngày thống nhất đất nước, trên toàn cõi Việt Nam vẫn chưa có được một nền
"tự trị đại học". Quá sớm để nói tới dân chủ hoá đất nước, khi mà các
Đại Học như những "Think Tank" vẫn còn bị chi phối lãnh đạo bởi những
Chi bộ Đảng Cộng Sản.
Hình 8: Những Hiệu trưởng Viện Đại học Cần Thơ từ ngày thành
lập tới nay;
từ trái, 1. GS Phạm Hoàng Hộ,
1966-1970; 2. GS Nguyễn Duy Xuân, 1970-1975;
3. Ông Phạm Sơn Khai, 1976-1989; 4. GS Trần
Phước Đường, 1989-1997;
5. TS Trần Thượng Tuấn, 1997-2002; 6. TS Lê
Quang Minh, 2002-2006;
7. GS Nguyễn Anh Tuấn, 2007-2012; 8. TS Hà
Thanh Toàn, 2013 đến nay.
[nguồn: tư liệu Lê Anh Tuấn]
Hình 9: GS Võ Tòng Xuân mời GS
Phạm Hoàng Hộ tham gia
chuyến khảo sát Đồng Tháp Mười của Đại học Cần
Thơ, tháng 3, 1981.
Từ trái, TS Trần Thượng Tuấn, TS Nguyễn Thị
Thu Cúc (bị che),ThS Đỗ Thanh Ren,
GS Võ-Tòng Xuân, GS Trần Phước Đường, một cán
bộ Phân Viện Qui Hoạch,
GS Phạm Hoàng Hộ, một cán bộ tỉnh Đồng Tháp. [nguồn: tư liệu Võ Tòng Xuân]
Qua một eMail, anh Võ Tòng Xuân kể lại:
"Tôi nhớ mãi GS Hộ trong chuyến đi đó,ông rất kỹ về vấn đề ăn uống, đem
theo đồ ăn và bình ton đựng nước uống riêng".[Hình 8]
GS PHẠM HOÀNG HỘ SINH
NHẬT 80
Tháng 7 năm 2009, một số môn sinh
đã tổ chức tại Montréal một lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của GS Phạm Hoàng Hộ,
cùng với một bức tượng được đem tới tặng Thầy với phát biểu đầy xúc động của một
môn sinh: "Bức tượng
không phải chỉ là hình ảnh của một giáo sư Thực Vật đáng
kính mà còn là biểu tượng của người trí thức Miền Nam, đã hiến
trọn đời mình cho khoa học, hết sức khiêm tốn so với tài năng của mình và
nhất là hết lòng yêu quê hương đất nước."
Hình 10: GS. Phạm Hoàng Hộ bên bức tượng bán thân
do một điêu khắc gia người Canada là bác sĩ Megerditch
Tarakdjian thực hiện
nhân dịp sinh nhật thứ 80 do một số môn sinh tổ chức tại
Montréal, Canada. [3]
Cũng rất ý nghĩa, trong buổi họp
sinh nhật ấy, bác sĩ Tăng Quang Kiệt đã đọc lời chúc của Giáo sư Phùng Trung
Ngân, định cư tại California, người
sáng lập ra Bộ Môn Sinh Môi Học/ Ecology Department cũng là Khoa trưởng Đại Học Khoa Học Saigon từ 1973-1975, là bạn đồng môn và cùng tuổi vớiGS Phạm Hoàng Hộ:
"Anh
Hộ thân mến, Tôi thành thật cám ơn Anh Chị và gia đình đã cho phép tôi gởi bài
phát biểu trong buổi lễ long trọng này. Với 80 tuổi đời, Anh đã đóng góp một
công trình đồ sộ về Cây Cỏ Việt Nam đồng thời với việc hướng dẫn sinh viên yêu
Thực vật và Thiên nhiên Việt Nam. Là người cộng tác gần gũi với Anh trong công
tác giáo dục sinh vật cho lớp trẻ VN tôi đã thấy sự tận tụy với nghề nghiệp của
Anh và lòng hăng say nghiên cứu của Anh. Kết quả là công trình nghiên cứu vĩ đại
về Cây Cỏ Nam Việt Nam và nhứt là công trình bổ sung đầy đủ Cây cỏ toàn bộ VN với
các mẫu cây quý báu đang bị bỏ quên trong Viện Thảo Tập ở Paris. Trước năm 1975
Anh và tôi thường dẫn sinh viên đi thực tập ở Lâm Đồng-Đà Lạt, cho các em leo
lên đỉnh Lâm Viên, một trong những ngọn núi cao khoảng 2000m ở miền Nam, chúng
ta thường ước mong khi hòa bình trở lại sẽ cùng nhau ra miền Bắc khảo sát Cây cỏ
Đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên Sơn. Rất tiếc đến ngày hôm nay ước
mong của chúng ta chắc không bao giờ thực hiện được. Tuy nhiên Anh đã tự mình
tiếp xúc với đỉnh Fan Xi Pan qua các mẫu cây còn lưu trữ tại Viện thảo Tập
Paris và cũng từ đó hình thành bộ công trình Cây Cỏ Việt Nam cho Khoa học.
Tôi rất may mắn là cộng tác viên thân cận của Anh trong nhiều năm nên đã học được
tính chu đáo trong nghiên cứu, sự tận tụy trong giảng dạy và lòng say mê nghiên
cứu Thiên nhiên Việt Nam."[3]
DI CHÚC GIỮ XANH ĐẤT MẸ
Trong Quyển cuối cùng của bộ sách Cây Cỏ Việt Nam [Quyển III, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993, chỉ
với hai trang Thay Lời Tựa, GS Phạm
Hoàng Hộ đã để lại một Thông điệp; cũng có thể coi như một Di Chúc cho Việt
Nam.
"Thực-vật-chúng Việt Nam có lẽ gồm
vào 12,000 loài. Đó là chỉ kể các cây có mạch, nghĩa là không kể các Rong, Rêu,
Nấm.
Đó là một trong những thực-vật-chúng
phong phú nhất thế giới. Sự phong phú ấy là một diễm phúc cho dân tộc Việt Nam.
Vì như tôi đã viết từ 1968, Hiển hoa là ân nhân vô giá của loài người. Hiển hoa
cho ta nguồn thức ăn căn bản hàng ngày; Hiển hoa cung cấp cho ta, nhất là người
Việt Nam, nơi sinh sống an khang. Biết bao cuộc tình duyên êm đẹp khởi đầu bằng
một miếng Trầu, một miếng Cau. Bao nhiêu chúng ta đã không chào đời bằng một mảnh
Tre để cắt rún, rời nhao? Lúc đầy nguồn sống lúc nhàn rỗi, chính Hiển hoa cung
cấp cho loài Người thức uống ngon lành để say sưa cùng vũ trụ. Lúc ốm đau, cũng
chính Cây cỏ giúp cho ta dược thảo hiệu linh.
Các điều ấy rất đúng hơn với chúng ta,
người Việt Nam mà ở rất nhiều nơi còn sống với một nền văn minh dựa trên thực vật.
Nhưng ân nhân của chúng ta ấy đang bị
hiểm hoạ biến mất, vì rừng nước ta đã lùi dưới mức độ an toàn, đất màu mỡ bị
soi mòn mất ở một diện tích lớn, và cảnh sa mạc đang bành trướng mau lẹ. Đã đến
lúc theo nhạc của một bài ca, ta có thể hát: "Thần dân nghe chăng? Sơn hà
nguy biến. Rừng dày nào còn, Xoi mòn đang tiến... Đâu còn muôn cây làm êm ấm
núi sông." [Ghi
chú của người viết: bài ca Hội nghị Diên Hồng, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời: Huỳnh Văn Tiễng - Mai Văn Bộ - Lưu Hữu Phước].
Kho tàng thực vật ấy
chúng ta có phận sự bảo tồn. Sự bảo tồn và phục hồi thiên nhiên ở nước ta rất
là cấp bách. Nó có thể thực hiện, vì mỗi người của chúng ta, dù lớn dù nhỏ đều
có thể góp phần vào sự bảo tồn ấy. Bằng những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày, sự
đóng góp của chúng ta quan trọng không kém.
Không quăng bậy một tia lửa,
một tàn thuốc, là ta góp phần tránh nạn cháy rừng. Không đốn bậy một cây, là ta
bảo vệ Thiên nhiên của ta. Trồng cây là phận sự của chính quyền hay của các
Công ty gầy rừng. Nhưng quanh nhà chúng ta, chúng ta có thể tìm trồng một cây lạ,
đặc biệt, hiếm của vùng hay chỉ có ở Việt Nam. Dân ta yêu cây hoa-kiểng, nhưng
các nhà nhàn rỗi có thể trồng cây lạ, đặc biệt, cũng là một thú không kém hay đẹp.
Các thị xã nên có một công viên hay vườn bách thảo, không lớn thì nhỏ để khoe
các cây hay của vùng, không bắt buộc là cây hữu ích hay đẹp. Cây Dó đâu có gì lạ?
Nhưng nó là niềm tự hào cho dân tộc vì từ Hồng Bàng, dân ta đã biết lấy trầm từ
nó. Cả ngàn loài cây khác chỉ có ở Việt Nam mà thôi! Các cây này có thể trồng
như cây che bóng mát dựa lộ. Các làng, các quận, các tỉnh nên tạo phong trào trồng
nhiều loài lý thú như vậy. Ta không cần đợi các lâm viện, khu dự trữ để bảo vệ
tài nguyên quý báu cho thế hệ sau, mà ta cũng có thể chính mình góp phần vào sự
bảo vệ ấy. Trồng các cây lạ, đặc biệt ấy còn là một yếu tố quến [chữ GS Phạm
Hoàng Hộ theo cái nghĩa quyến rũ] du khách quan trọng: Lan Thuỷ tiên hường
Dendrobium amabile của ta, chỉ có ở một Vườn Bách thảo ngoại quốc trồng được và
họ tự hào đến đỗi đã ghi trong "Sách ghi quán quân thế giới 1988."
Hàng năm ta có thể tuyên
dương nhà nào đã trồng cây hay, lạ. Tất nhiên là công với nước nhà mới trông
không bằng những ai đã đem Rhizobium vào để tăng năng xuất đậu nành, đã trồng
được cây Dó tạo trầm, đã du nhập lúa Thần nông hay Nho. Nhưng nếu cả ngàn người,
cả triệu người đóng góp cho non nước những "nhỏ-nhen" [chữ GS Phạm
Hoàng Hộ theo cái nghĩa nhỏ nhặt], cả triệu cái nhỏ-nhen chắc chắn trở nên một
khối đồ sộ.
Đóng góp lớn, tôi vẫn cho là việc khó.
Tôi quý các đóng góp nhỏ, hằng ngày mà ai cũng làm được. Nó hay hơn. Kẻ sĩ,
theo tôi không phải chỉ là những kẻ đã làm được những chuyện lớn. Đóng góp những
chuyện nhỏ hàng ngày cũng là hành động của một kẻ sĩ, kẻ sĩ vô danh. Kẻ sĩ vô
danh cao quý không kém. Với những đóng góp nhỏ ấy, chắc chắn bạn không làm buồn
lòng cho Tổ Quốc và không thẹn với NonSông. [lược dẫn Thay Lời Tựa, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam; Quyển III, Tập 2].
Qua "Di Chúc" ấy của GS Phạm Hoàng Hộ,
từ nay môn Sinh học Thực Vật không còn là lý thuyết mà đã đi vào đời sống;Giữ Xanh Đất Mẹ phải là kim chỉ Nam cho
mọi trình độ giáo dục từ Tiểu học tới Đại học, cả trong công dân giáo dục, là
giá trị phổ quát và xuyên suốt cho mọi thể chế chính trị và cả trên tầm vóc
toàn cầu là Giữ Xanh Trái Đấtnày/
Keep this Planet Green.
THAY CHO MỘT KẾT TỪ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã xem bộ sách "Cây Cỏ Việt Nam là công trình của đời
tôi" và Giáo sư đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho:
“Những ai còn sống hay đã
chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho
đất nước.
Tặng giáo sư Nguyễn Duy
Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo
Hà-Nam-Ninh.
Tặng hương hồn những ai
trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
Xin gửi tới hương linh Giáo sư Phạm Hoàng Hộ,
một nhà khoa học lớn, một nhân cách lớn, một kẻ sĩ khí phách biểu tượng của trí
thức đã đi hết chặng đường đau khổ với trọn đời cống hiến trong một giai đoạn vô
cùng đen tối của đất nước.Bài viết ngắn vội này trong nỗi xúc động, như một nén
nhang của một môn sinh tưởng nhớ Thầy với câu thơ của thi hào Nguyễn Du: Thác là thể phách còn là tinh anh.Và
cũng với ước mong một ngày nào đó"hoa
sẽ nở trên đường quê hương", sẽ có một tượng đài của Thầy trên đỉnh
Fan Xi Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên Sơn để các thế hệ môn sinh tiếp tục được
Thầy hướng dẫn tới đó khảo sát Cây Cỏ và hoàn tất Giấc Mơ Việt Namcủa Thầy.
NGÔ
THẾ VINH
Tham
Khảo:
1/ GS. Phạm
Hoàng Hộ & GS. Nguyễn Duy Xuân đối với việc hình thành và phát triển Viện Đại
học Cần Thơ (1966 - 1975); Phạm Đức Thuận; Tập San Xưa và Nay Số 439 Tháng 11
Năm 2013.
http://www.cantholib.org.vn/Database/Content/1188.pdf
2/ Vị Tổng Trưởng quyết không rời Quê
hương. Trung Hiếu; Báo Thanh Niên 28.04.2015;
http://thanhnien.vn/thoi-su/giu-huyet-mach-cho-hon-ngoc-vien-dong-ky-6-vi-tong-truong-quyet-khong-roi-que-huong-556577.html
3/ Anh Chị Thuỷ - Thu Vân thăm Thầy Phạm
Hoàng Hộ
http://truongxuabancu.fpb.yuku.com/topic/118/Anh-Ch-ThuThu-Vn-thm-Thy-Phm-Hong-H#.WJNVUxTcdwg
4/ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một người thầy
của tôi. Lê Học Lãnh Vân;
Một Thế Giới.VN 02.02.2017