VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
Sưu tầm, biên soạn và giới thiệu:
HUỲNH ÁI TÔNG
____________________________________________
LỮ QUỲNH
(1942-…)
Nhà văn Lữ Quỳnh
Nhà văn Lữ Quỳnh tên thật
là Phan Ngô, sinh năm 1942, tại Thừa Thiên – Huế. Thân phụ mất sớm, lúc một tuổi. Tuổi nhỏ phần lớn sống tự lập.
Học sinh
Quốc Học - Huế (1959-1962).
Dạy học tại trường Bán công Vinh Lộc (1962-1963).
Sĩ
Quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa (Khóa 19 Trường Bộ Binh Thủ Đức, ngành Hành Chính Quân Y). Đơn vị phục vụ: Tổng Y Viện Duy Tân - Đà Nẳng (1965-1966),
Tiểu đoàn 22 Quân Y Sư đoàn 22 Bộ Binh, Bà Gi –Bình
Định (năm 1967-1970), Quân Y Viện Quy
Nhơn (1971-1975).
Là một trong những thành viên sáng lập tạp chí văn học nghệ thuật Ý Thức vào năm 1970 tại Sài Gòn.
Đã viết trên các tạp chí Phổ
Thông, Mai, Bách Khoa, Ý Thức , Khởi Hành, Thời Tập và nhiều tạp chí khác trước năm 1975 ở miền nam.
Sau 30 tháng 4 năm 1975 học
tập cải tạo ở trại Cồn Tiên, Ái Tử, Quảng Trị.
Năm 2000 cùng gia đình định cư tại San Jose, California (Hoa Kỳ).
Tác phẩm:
- Cát Vàng (tập truyện, Ý Thức, 1971).
- Sông Sương Mù (tập truyện, Ý Thức, 1973).
- Những Cơn Mưa Mùa Đông (Truyện dài, Nam Giao, 1974)
- Vườn Trái Đắng (Truyện dài, đăng nhiều kỳ trên Ý Thức, 1971–1972).
- Sinh Nhật Của Một Người Không Còn Trẻ (Tập thơ Văn Mới, 2009).
- Đi Để Thương Đất Nước Mình (Ký, Văn
Mới, 2012).
Ghi
chú: tài liệu này chỉ mới cập nhật các tác phẩm đã xuất bản của Lữ Quỳnh đến thời điểm 2012.
Trích văn:
CÁT VÀNG
Truyện ngắn của Lữ Quỳnh
Tôi giữ nguyên thế nằm từ lúc vừa thức giấc. Gió làm
lay động những lá cỏ ngoài lỗ châu mai. Tôi ngửi thấy mùi đất ẩm, và liên tưởng
tới những nấm mồ hoang, những bộ xương trắng phếu trong hang sâu mà ngày còn nhỏ
tôi đọc trong các truyện đường rừng.Bây giờ tôi nằm đây.Tôi đang nằm dưới một
pháo đài chìm, có khác gì nấm mồ hoang trong trí tưởng?Tôi nằm im. Tôi muốn tan
ra trong sự yên lặng của đêm. Trí óc tôi có thể tự do ngắm nhìn thân xác. Tôi
nhìn nó – cái thân thể có ở tôi suốt một phần tư thế kỷ nầy vẫn có thể làm tôi
cảm thấy lạ hoắc?Tôi thấy lòng hoang vu khi nhìn xuống mỗi vuông da thịt.Sao nó
xa lạ đến thế?Tôi không còn nghĩ ngợi gì nữa.Như Chiến thế đó. Như những đám
mây trắng lơ lững trên vòm trời, như sự ngu si của ký ức. Tôi chợt buồn đến ứa
nước mắt, như mọi lần mỗi khi nhớ tới Chiến.Tôi cứ tưởng rằng mình sẽ khóc thật
dễ dàng khi đứng trước nấm cát vàng của Chiến.Nhưng không, trong tôi sợi thần kinh
tuyến lệ hình như đã tê liệt hẳn rồi.Bây giờ người ta không còn khóc được nữa.Tâm
hồn là đá, mà nỗi buồn cũng thành đá.Chiến đã nằm xuống và không một ai có thể
thay hắn, sống phần đời còn lại.Những kẻ còn sống còn bôi đen tương lai mình,
huống gì nghĩ tới việc sống thay đời kẻ khác.
Ánh sáng mờ nhạt bắt đầu hiện rõ dần ở lỗ châu mai. Một
hình chữ nhật màu sữa.
Tôi lắng nghe bước chân của người lính đi tuần phía
ngoài.Tiếng động đều, rả rời, âm thầm không dứt .Nó lê thê như nổi chán chường
và cô đơn hơn sức chịu đựng.Tại sao tôi không chết lúc nầy.Cái chết của tôi thật
hợp lý, vì tôi là lính.Tôi đã chờ đợi và chấp nhận.Còn Chiến thì không thể được.Chiến
như một cây xanh.Đôi mắt hắn tròn xoe, đã nhìn qua chiến tranh và chắc chắn phải
vượt qua sự chết.Những lời thì thầm của Chiến còn đó, hoài bão của Chiến còn
đó.Nhưng bây giờ thì tôi phải thăm Chiến bên một nấm cát vàng, phải nghe gió
thì thào và hơi nóng mùa hạ hắt lên từ đất.
Con đường cát mịn giữa hai hàng liễu xanh của chiều
thu ngày nào. Những dấu chân tôi bơ vơ đến tội nghiệp trên cát. Ngày đó chưa mặc
áo rừng, cổ chân chưa có những vết chai cứng vì giày trận.Cái thời mà quê hương
còn tiếng chó sủa, đêm trăng còn nhìn lá dừa lấp lánh sương khuya. Con đường đó
thật thơ mộng, đẹp dịu dàng như tuổi thơ, đã chôn vùi bao nhiêu vết chân Chiến.
Quê hương những hoàng hôn chúng tôi nằm dài trên cát chờ sao mọc. Giọng Chiến
còn đó, bao giờ cũng ngập ngừng : Tôi hiểu anh…Chúng mình phải phấn đấu. Quá khứ
bi thảm cũng là hơi men váng vất trong hơi thở đủ ta say…
Tôi mỉm cười. Tôi đã say. Quá khứ cùng một dáng dấp.Tôi
cúi đầu đi, quên cả đôi chân bỏng rát vì cát nóng mùa hạ. Qúa khứ thảm thương của
một thế hệ .Bấy giờ thì tôi chưa nghĩ thế, nhưng từ khi Chiến chết, tôi đã nghĩ
thêm được nhiều điều.Tôi cảm thấy thêm sự ngọt ngào của những củ khoai bột
vàng, những chén cơm gạo đỏ trộn lẫn sắn khô, những đêm trăng bà mẹ của Chiến bắc
thang hái trầu, và chúng tôi nằm bên nhau thao thức.Chiến đã sống bên tôi,
nhưng Chiến chưa nói hết.Có những điều hắn không muốn nói ra, nhưng tôi hiểu.
Tôi còn nhớ rõ ràng khuôn mặt già nua đầy âu lo của người mẹ khi ngồi xếp từng
lá trầu hoặc những cuốn lá chuối khô để mang ra chợ bán. Chiến đã lớn lên bằng
những đồng tiền kiếm được từ mỗi ngọn trầu, mỗi lá chuối qua bàn tay khô đét của
người mẹ. Tôi biết Chiến đã nghĩ gì,khi ánh mắt đăm chiêu nhìn những đứa bé
hàng xóm trần truồng ngồi chơi với cái bụng ỏng căng tròn như chiếc trống. Màu
vàng trên da lũ trẻ còn thê thảm hơn thân phận của màu da quê hương. Tôi biết hắn
đang ao ước điều gì.Không thể ngồi mơ có chiếc đũa thần để lần lượt gõ lên khắp
bụng đám trẻ.Tôi nghĩ tới tương lai không một sự rào đón, không một chút đề
phòng. Quê hương tôi đói khổ, lũ trẻ con cần được hướng dẫn. Những người mẹ của
chúng không thể suốt đời đi chợ mỗi ngày bằng năm đồng bạc. Năm đồng bạc đủ mua
mấy con cá vụn nấu với một trách bỏng nước cho cả gia đình cùng húp. Chúng ta
phải phấn đấu, dù có chết đi cũng sung sướng vì được chết trong ước mơ làm nhỏ
lại những cái bụng màu nghệ căng tròn, làm cho mỗi ngọn trầu, mỗi chiếc lá chuối
khô có thể đổi được nhiều hơn những con cá vụn với năm đồng bạc chợ mỗi ngày.
Tôi hiểu Chiến.Tôi chờ đợi, và không hề nghĩ tới một sự trắc trở, vì Chiến còn
đi học, Chiến mới hai mươi tuổi.
Tôi nhớ thật rõ nét mặt của bà mẹ Chiến hôm tôi về
thăm.Da mặt xạm đen, và hai gò má nhô hẳn ra. Bà nói với tôi, giọng bùi ngùi:
Ngày Tết mà thằng Chiến không về đượcTôi thản nhiên, vì tôi đã biết hắn ngồi
trong tù. Ở tù hắn sẽ có dịp để suy nghĩ nhiều hơn.Cơm tù chắc chắn cũng không
khổ hơn những bữa cơm nhà với mỗi ngày năm đồng tiền chợ. Quả thật tôi yên tâm
hơn khi biết chắc chắn Chiến ở tù không vì lý do nào cả. Một buổi trưa ở trường
về, bị người ta chận ở đầu cầu rồi dẫn đi.Cảnh Chiến ngồi tù cũng không làm tôi
cảm thấy buồn.Ở đời vẫn có vô số kẻ chỉ sợ có mỗi sự âm thầm, nhất là sự âm thầm
của Chiến.Sự âm thầm làm kẻ khác nhìn vào tối mắt. Tôi lấy giọng ngọt ngào để
trả lời mẹ Chiến: Chiến không có tội gì, thế nào người ta cũng thả anh về, bác
nên yên lòng.
Người đàn bà rướm nước mắt: Người ta cũng bảo thế, nó
còn dại đã biết gì mà người ta đòi làm tù làm tội…
Tôi tưởng tượng khuôn mặt Chiến sau những chấn song tù
ngục, mà mỉm cười chua xót.Dù là mẹ, những người đàn bà làm sao hiểu được những
mơ ước trong lòng con. Mẹ thương con bằng những củ khoai bột vàng buổi sáng, những
bữa ăn đằm thắm buổi trưa, những đêm thức dậy nhìn con ngủ, đắp lại chiếc chăn,
sửa lại chân mùng. Mẹ thương con bằng ấy thứ, nhưng mẹ làm sao hiểu được những
tiếng thở dài vu vơ, những giấc ngủ chập chờn mộng mị nước mắt…Chiến ở tù thật
yên ấm.
Thế là đêm giao thừa thiếu Chiến để đốt nến, thiếu Chiến
để nhìn bàn tay run cầm cây hương thắp vào chuôi pháo. Tôi biết thiếu Chiến.Và
tôi cảm thấy tết nầy không đầy đủ thật sự.
Tiếng pháo nổ dòn hơn mọi năm. Niềm vui cũng bừng sáng
trong lòng mọi người.
Tiếng pháo nổ dòn quá, làm người ta nghĩ sự tốt đẹp,
thanh bình phải đến trong năm mới.Nhưng pháo đã không nổ dòn như họ tưởng. Sự
bình yên vốn có ở thành thị làm người ta không thể phân biệt được tiếng súng bấy
giờ. Pháo nổ tràn ngập. Và súng nổ tràn ngập. Cho dến khi nhận ra sự bất an thì
đã quá muộn. Thành phố thành chiến trường. Biết làm thế nào khi bên kia vành
nôi là họng súng, trong lời ru hớt hãi của mẹ là tiếng ì ầm của đại bác. Tôi
không thể tưởng tượng được trong giây phút đó Chiến đã nghĩ gì? Lần đầu tiên
trong đời phải đối diện chiến tranh, và cũng là lần mang theo vĩnh viễn cái vốn
liếng xác xơ của quê hương nghèo khổ. Khi cánh cửa ngục được súng đạn và sự hỗn
loạn mở tung, những người tù trở nên tự do. Họ quên nghĩ rằng họ đã vượt ngục.Họ
đang sợ hãi sự chết, đang cố gắng vượt qua sự chết, vì bom đạn giây phút đó
đang trút xuống quanh họ, trên cùng khắp các đường phố. Đạn bay ra từ mọi cánh
cửa sổ. Bom dội xuống từ tiếng thét rợn rùng của máy bay. Những người tù cắm đầu
chạy không định hướng, chạy theo đồng bào, theo tiếng khóc hãi hùng của trẻ
thơ. Trong sự hãi hùng bi thảm nhất, tôi biết chắc một điều là Chiến đã chạy về
phía tôi, về căn nhà mà mỗi buổi sáng buổi chiều, tôi đã nhắc tới Kim với Chiến.
Những buổi trời sáng trong và chúng tôi cùng nhận ra khuôn mặt rạng rỡ của
mình. Bước chân của Chiến thế nào mà chẳng run lên vì lo lắng và mừng rỡ. Bằng
bước chân trần trên ngói gạch vụn, Chiến đã chạy như con nai giữa phố phường.
Buổi sáng trời thật xanh, nhưng không một người chú ý. Tiếng súng làm căng thẳng
trí não họ. Hơn nữa, họ đã dành hết thì giờ để nhìn thật kỷ khuôn mặt vợ con,
nhìn mà cứ ngỡ nhìn lần cuối cùng.Không một ai nghĩ rằng bầu trời bấy giờ thật
xanh, và giòng sông thì thật buồn đang âm thầm chảy. Chiến vẫn như một con nai
không bao giờ nghĩ tới họng súng săn đang di chuyển theo mình. Tâm hồn Chiến
trong sáng quá. Tâm hồn đó đầy ắp yêu thương, không biết tới tầm đạn đi cũng
không nghĩ rằng mình có thể chết.
Tôi nghe kể lại, Chiến đã nằm chết thật thản nhiên trước
mặt một trường tiểu học, phía sau sân vận động.Thành phố bấy giờ nhiều xác người
quá, nên thân thể Chiến chẳng gây thêm sự tò mò nào cho kẻ còn sống. Chiến bị
ngã giữa lúc muốn vượt qua con đường, con đường dẫn tới căn nhà quen thuộc, mà ở
đó mỗi sáng mỗi chiều tôi đã kể về Kim với hắn. Nhớ lại buổi sáng cuối cùng được
nhìn nụ cười ánh mắt của Chiến cùng câu chuyện vu vơ về một đám cưới. Chiến muốn
ngày cưới Kim tôi phải mặc áo rộng xanh, và Kim chít khăn vành thật rộng, Chiến
muốn thấy lũ trẻ xách lồng đèn, những người đàn ông mặc áo dấu, đội nón Gò
găng.
Cái gì Chiến ước mơ cũng tầm thường như thế cả. Hình ảnh
một đám cưới ngày xưa, cũng như những đứa trẻ với chiếc bụng căng tròn
vàng ỏng nước, những ngọn trầu, những lá chuối, những đồng bạc bé nhỏ trên tay
mẹ già… Quả thật những ước mơ của Chiến quá nhỏ.Quá nhỏ, nhưng đến lúc buông
xuôi hai tay, lòng chưa toại nguyện.
Tôi cảm thấy mắt mình cay rát, lạnh hai bên khóe.Bây
giờ thì tôi không cảm thấy gì hết.Suốt ngày, tầm mắt với màu đỏ núi đồi, tôi thật
thản nhiên khi nhớ tới quá khứ, khi nghĩ về tương lai.Và đêm xuống, dưới chiếc
pháo đài chật hẹp nầy, tôi cũng bình thản ngắm nhìn thân xác mình.Tôi nghĩ tới
cát bụi, nghĩ tới hư vô.Rồi tâm hồn tôi bỗng chao đi chới với, như cảm giác một
đêm nào uống say mèm ở thành phố, nhìn thằng bạn vừa kéo violon vừa khóc tức tưởi.
Tôi đã ôm hắn, kéo đầu hắn vào lòng mà thầm dỗ: Nín đi con, nín đi con. Còn
khóc ta đánh chết bây giờ!
Tôi đã buồn thật nhiều.Tôi nhớ Chiến se sắt.Tôi muốn
khóc cho Chiến nhưng không thể nào khóc được. Trong ánh sáng đầu tiên của ngày,
tôi nghĩ đó cũng là đìều bất hạnh.
LỮ QUỲNH
(Tạp chí Bách Khoa, số Xuân, 290-291, 1&15-2-1969)
Tài
liệu tham khảo: